Chiều ngày 30/11, trong chương trình làm việc kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Kết quả biểu quyết cho thấy 443/454 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành.
Trước khi biểu quyết thông qua, Quốc hội
đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo
tóm tắt tiếp thu, chỉnh lý và giải trình về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc
độ cao trên trục Bắc - Nam.
Ông Vũ Hồng Thanh cho biết, đa số ý kiến
nhất trí với sự cần thiết đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc -
Nam; việc đầu tư Dự án đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa chủ
trương, định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước, tạo bước đột phá trong
phát triển kinh tế - xã hội, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng giao thông.
Có ý kiến đề nghị tính toán, kỹ lưỡng tất
cả các yếu tố và rủi ro để có giải pháp khả thi, phù hợp với điều kiện của Việt
Nam.
UBTVQH thống nhất với đa số ý kiến các vị
ĐBQH về sự cần thiết đầu tư Dự án. Thực tế Dự án đã được nghiên cứu, chuẩn bị đầu
tư trong thời gian khá dài (khoảng 18 năm) và tham khảo kinh nghiệm tại một số
quốc gia có phát triển đường sắt tốc độ cao trên thế giới để hoàn thiện Báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi, trong đó đã phân tích, tính toán với kết quả dự báo
nhu cầu vận tải, tiềm lực, vị thế Việt Nam hiện nay là điều kiện thích hợp để
triển khai đầu tư Dự án.
Đồng thời, cơ quan có thẩm quyền đã thảo
luận rất kỹ lưỡng về chủ trương đầu tư, các yếu tố, điều kiện để triển khai Dự
án. Tuy nhiên, các tính toán tại bước nghiên cứu tiền khả thi mới chỉ mang tính
sơ bộ, do đó đề nghị trong bước nghiên cứu khả thi Dự án, Chính phủ chỉ đạo các
cơ quan liên quan tiếp tục tính toán cụ thể, đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố, rủi
ro để có giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm tính khả thi cho Dự án.
Về phạm vi, quy mô đầu tư và phương án thiết
kế sơ bộ, có ý kiến đề nghị bổ sung phạm vi Dự án kéo dài từ Lạng Sơn đến mũi
Cà Mau và phân kỳ thực hiện theo từng giai đoạn; đề nghị kết nối Dự án vào tuyến
đường sắt TPHCM đi Cần Thơ để bảo đảm đồng bộ.
Theo UBTVQH, Quy hoạch mạng lưới đường sắt
thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định phát triển các tuyến đường
sắt mới từ Lạng Sơn đến Cần Thơ, gồm 3 đoạn tuyến: Lạng Sơn (Đồng Đăng) - Hà Nội,
Hà Nội - TPHCM, TPHCM- Cần Thơ để kết nối các vùng động lực, các đô thị, các
trung tâm kinh tế lớn và bảo đảm quốc phòng - an ninh trên hành lang kinh tế Bắc
- Nam.
Do các đoạn tuyến đường sắt từ Lạng Sơn đến
Cần Thơ có nhu cầu vận tải khác nhau nên tiêu chuẩn kỹ thuật, loại hình đường sắt
cũng khác nhau và được nghiên cứu đầu tư theo các dự án độc lập, phù hợp với
nhu cầu vận tải của từng đoạn tuyến và khả năng huy động nguồn lực, trong đó:
đoạn Lạng Sơn - Hà Nội, chiều dài 156 km là đường sắt tiêu chuẩn, đang nghiên cứu
lập quy hoạch chi tiết, dự kiến đầu tư trước năm 2030; đoạn Hà Nội - TPHCM, chiều
dài 1.541 km là đường sắt tốc độ cao, phấn đấu khởi công năm 2027; đoạn TPHCM -
Cần Thơ, chiều dài 174 km là đường sắt tiêu chuẩn, đang chuẩn bị đầu tư, dự triển
khai đầu tư trước năm 2030.
Về hiệu quả kinh tế - xã hội, tài chính của
Dự án, một số ý kiến đề nghị đánh giá kỹ lưỡng hiệu quả tài chính, nhất là khả
năng thu hồi vốn, khả năng hoàn trả vốn và việc trợ giá cho Dự án trong quá
trình vận hành, khai thác.
Theo UBTVQH, Chính phủ đã tính toán các lợi
ích kinh tế trực tiếp và gián tiếp rất lớn nhưng không thể tính toán vào nguồn
thu và hiệu quả tài chính Dự án. Tương tự mô hình các nước trên thế giới, các dự
án đường sắt mang lại hiệu quả rất lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên doanh thu
tính toán hoàn vốn cho Dự án chủ yếu từ nguồn thu vận tải, khai thác thương mại
để cân đối cho chi phí vận hành, bảo dưỡng phương tiện, bảo trì kết cấu hạ tầng
và trả phí hạ tầng cho Nhà nước.
Theo đó, trong 4 năm đầu khai thác, doanh
thu chỉ bù đắp được chi phí vận hành, bảo trì phương tiện, do đó Nhà nước cần hỗ
trợ một phần từ nguồn vốn sự nghiệp kinh tế bố trí cho hệ thống đường sắt như
hiện nay để bảo trì kết cấu hạ tầng.
Về nguồn vốn cho Dự án, nhiều ý kiến đề
nghị bổ sung đánh giá đầy đủ hơn về nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, bố trí vốn
cho từng giai đoạn của Dự án để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả; đề nghị bổ sung
đánh giá kỹ lưỡng về tác động của việc đầu tư Dự án đến bội chi ngân sách nhà
nước, nợ công và khả năng trả nợ của ngân sách trong trung và dài hạn.
Có ý kiến cho rằng, Dự án trải qua 3 kỳ
trung hạn, vì vậy tổng mức đầu tư được duyệt giai đoạn nào thì chỉ tính trong
giai đoạn đó, phần vốn được thực hiện giai đoạn nào thì tính vốn vào kỳ trung hạn
đó và không nên chuyển từ kỳ trung hạn trước qua kỳ trung hạn sau.
Theo UBTVQH, Dự án kéo dài qua 3 kỳ trung
hạn, khả năng cân đối vốn, bố trí vốn để thực hiện Dự án, cụ thể: giai đoạn
2021 - 2025, nhu cầu vốn cho Dự án khoảng 538 tỷ đồng (sử dụng cho công tác chuẩn
bị đầu tư) đã được cân đối trong kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ Giao
thông vận tải; giai đoạn 2026 - 2030, nhu cầu vốn khoảng 841.707 tỷ đồng và
giai đoạn 2031 - 2035, nhu cầu vốn khoảng 871.302 tỷ đồng.
Theo Luật Đầu tư công năm 2019, hiện nay
đánh giá khả năng cân đối nguồn vốn chỉ có thể thực hiện theo kế hoạch đầu tư
công trung hạn 5 năm, phần chuyển tiếp sang giai đoạn sau không quá 20% kế hoạch
đầu tư công giai đoạn trước. Dự án kéo dài qua 3 kỳ trung hạn nên việc xác định
khả năng cân đối vốn là chưa có quy định.
Do đó, tại dự thảo Nghị quyết đã quy định
Dự án được bố trí vốn qua các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn, mức vốn bố trí
mỗi kỳ trung hạn phù hợp với tiến độ thực hiện Dự án và không phải thực hiện việc
thẩm định khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công.
Cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách
đặc thù
Về các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt
triển khai đầu tư Dự án, nhiều ý kiến cho rằng, Dự án có vai trò quan trọng,
mang tính chiến lược dài hạn, tác động sâu, rộng tới mọi mặt của nền kinh tế -
xã hội nước ta và có quy mô rất lớn, yêu cầu về công nghệ kỹ thuật phức tạp, lần
đầu tiên được triển khai thực hiện ở Việt Nam. Do đó, để bảo đảm tính khả thi,
hiệu quả cho Dự án thì việc cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù,
đặc biệt là rất cần thiết.
UBTVQH thống nhất với ý kiến các vị ĐBQH,
UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính
sách đặc thù, đặc biệt để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả trong việc áp dụng triển
khai thực hiện Dự án.
Đồng thời, giao Chính phủ ban hành Nghị định
hướng dẫn chi tiết việc triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách này. Trong
quá trình thực hiện, trường hợp tiếp tục cần phải bổ sung, điều chỉnh cơ chế,
chính sách đặc thù để thực hiện, Chính phủ sẽ trình Quốc hội, UBTVQH xem xét
quyết định.
Đối với chính sách 7, có ý kiến đề nghị
quy định chính sách riêng về đào tạo làm chủ công nghệ và vận hành, khai thác Dự
án sau khi hoàn thành.
Theo UBTVQH, nội dung về đào tạo nguồn
nhân lực là một chương trình tổng thể, đồng bộ và được triển khai trong thời
gian dài từ khi nghiên cứu cho đến quá trình vận hành, khai thác sau này. Tổng
nhu cầu nguồn lực đào tạo khoảng 227.670 người.
Đồng thời, chính sách 8 về phát triển công
nghiệp và chuyển giao công nghệ phù hợp với điều kiện và trình độ của ngành
công nghiệp đường sắt Việt Nam hiện tại.
Việc quy định chính sách riêng về làm chủ
công nghệ vận hành, khai thác Dự án sau khi hoàn thành không bảo đảm tính liên
kết của một chương trình tổng thể do từng nội dung từ quản lý, thiết kế, thi
công, vận hành đều liên quan đến nhau. Do đó, xin giữ như dự thảo Nghị quyết.
Ngoài ra, theo ông Vũ Hồng Thanh, các ý kiến
góp ý cụ thể đã được UBTVQH giải trình, tiếp thu tại Báo cáo đầy đủ. Đồng thời,
UBTVQH đã chỉ đạo tiếp thu các ý kiến góp ý, rà soát, hoàn thiện và chỉnh lý về
kỹ thuật văn bản của Nghị quyết cho phù hợp.
Theo BCP