Bộ Tài chính kiến nghị bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài, và chuyển sang phương thức quản lý ngoại hối.
Tại dự thảo tờ trình chính sách Luật Đầu tư (thay thế), Bộ
Tài chính kiến nghị bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc
thầm quyền của Quốc hội, Thủ tướng và Bộ Tài chính. Thay vào đó, nhà đầu tư
đăng ký với Ngân hàng Nhà nước về việc chuyển tiền ra nước ngoài.
Theo Bộ, việc bỏ thủ tục cấp phép này giúp hoạt động đầu
tư ra nước ngoài được quản lý đúng, thực chất hơn. Bởi, nhà đầu tư sẽ đăng ký với
Ngân hàng Nhà nước sau khi họ có đủ hồ sơ chấp thuận đầu tư của nước ngoài (giấy
phép đầu tư, chứng nhận thành lập doanh nghiệp hoặc hợp đồng góp vốn, mua cổ phần
vào công ty nước ngoài...).
Phương án này cũng giúp cắt giảm nhiều thủ tục hành
chính, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà đầu tư, tăng cạnh tranh cho doanh
nghiệp. Việc này còn tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận nhanh hơn cơ hội làm
ăn ở nước ngoài, mở rộng thị trường, phát triển vùng nguyên liệu, đóng góp cho
nền kinh tế.
Ở góc độ quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước sẽ thống
kê, kiểm tra tình hình thực hiện để đánh giá và điều chỉnh khi có ảnh hưởng tới
cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối. Hệ thống ngân hàng cũng có công cụ xử lý
kịp thời với các trường hợp không tuân thủ quy định về chế độ báo cáo như tạm dừng
cho phép chuyển tiền, phong tỏa tài khoản vốn đầu tư.
Theo quy định hiện hành, hoạt động đầu tư ra nước ngoài
được kiểm soát theo hướng cơ quan quản lý xác định các ngành nghề cấm hoặc kinh
doanh có điều kiện và cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho doanh nghiệp.
Cụ thể, với dự án vốn 20.000 tỷ đồng trở lên, áp dụng cơ
chế chính sách đặc biệt sẽ phải được Quốc hội chấp thuận việc cấp phép. Thủ tướng
quyết định với dự án có vốn từ 800 tỷ đồng trở lên, và lĩnh vực ngân hàng, bảo
hiểm, chứng khoán, báo chí, viễn thông... vốn trên 400 tỷ.
Tính đến cuối tháng 6, Việt Nam có 1.916 dự án đầu tư ra
nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn 23 tỷ USD. Trong đó, hơn 67% dự án có vốn
dưới 20 tỷ đồng. Gần một phần ba dự án quy mô trên 20 tỷ, nhưng số này chiếm tới
98,3% tổng vốn. Còn lại là các dự án dưới 1,2 tỷ đồng. Những dự án này thuộc diện
chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng hoặc giấy chứng nhận đầu tư ra nước
ngoài.
Bộ Tài chính đánh giá doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài dần
trở thành xu hướng phổ biến. Việc này đem lại nhiều lợi ích về mở rộng thị trường,
tăng doanh thu, tiếp cận công nghệ và trình độ quản trị hiện đại, cũng như giảm
chi phí cho doanh nghiệp.
Lý do đề xuất bỏ cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài, Bộ
Tài chính cho hay thực tế phát sinh bất cập cần sửa để bảo đảm quản lý của Nhà
nước và mở rộng quyền tự do đầu tư, kinh doanh cho doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành, nhà đầu tư muốn đưa vốn ra nước
ngoài phải thực hiện nhiều bước xin cấp phép, trong đó cơ quan quản lý duyệt
chi tiết về hình thức, quy mô, địa điểm, nguồn vốn dự án. Bộ Tài chính nhận định
cách làm này chưa hợp lý, vì phần lớn là vốn tư nhân, dự án phải tuân thủ luật
nước sở tại, trong khi pháp luật Việt Nam chưa phân định rõ nội dung thuộc thẩm
quyền điều chỉnh trong nước và nước tiếp nhận đầu tư.
Bất cập khác là cơ chế hiện hành tập trung vào xét duyệt
dự án, nhưng khó ràng buộc trách nhiệm nhà đầu tư sau khi họ đã chuyển tiền ra
nước ngoài. Thực tế, mục tiêu chính của nhà đầu tư là được thực hiện giao dịch
ngoại hối để triển khai kinh doanh ở nước ngoài. Nếu thủ tục phức tạp, nhà đầu
tư có thể bỏ lỡ cơ hội, đặc biệt với các thương vụ cần quyết định nhanh.
Bộ Tài chính dẫn kinh nghiệm quốc tế cho thấy đa số các
nước chỉ kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài, áp dụng chính sách cấm hoặc
hạn chế trong một số trường hợp để bảo đảm cân đối vĩ mô và tính hợp pháp của
nguồn vốn. Hiện chỉ còn Việt Nam, Lào và Indonesia duy trì cấp phép cho hoạt động
này.
Trung Quốc vẫn cấp nhưng đã nới lỏng, chỉ quản lý dự án lớn
hoặc thuộc một số lĩnh vực đặc thù. Các nước khác chuyển sang cơ chế nhà đầu tư
kê khai, đăng ký vốn chuyển ra nước ngoài với hệ thống ngân hàng.
Theo VNE