Xác định vai trò quan trọng của công nghiệp trong tiến trình phát triển đất nước, mới đây, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có buổi làm việc với Cục Công nghiệp nhằm đánh giá một cách tổng quan những kết quả đã đạt được, thẳng thắn chỉ ra tồn tại, hạn chế để tìm giải pháp khắc phục và đặt ra các nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, đặc biệt là trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế, nối lại chuỗi sản xuất hậu dịch Covid-19.

Tham dự buổi làm việc có Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải và lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ, gồm: Văn phòng Bộ, Vụ tổ chức cán bộ, các Vụ thị trường, Tổng cục quản lý thị trường, Cục Hóa chất, Cục Phòng vệ thương mại…

Báo cáo tại buổi làm việc, Cục trưởng Cục Công nghiệp Trương Thanh Hoài đã điểm lại tình hình công tác của Cục trong 9 tháng đầu năm 2021 nói riêng cũng như trong giai đoạn 2017 – 2021 nói chung. Trong đó nổi bật là hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, xây dựng, hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp.

Về nhiệm vụ từ nay đến cuối năm, ông Hoài cho biết, Cục Công nghiệp sẽ tập trung công tác bảo đảm an toàn phòng dịch phục vụ sản xuất, kinh doanh; bảo đảm lưu thông hàng hóa phục vụ hoạt động của doanh nghiệp; đề xuất hỗ trợ chính sách về tài chính, tín dụng, an sinh xã hội cho doanh nghiệp và người lao động. Cùng đó, tập trung cho việc hoàn thiện chính sách thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, hỗ trợ doanh nghiệp, địa phương phát triển công nghiệp và truyền thông.

Nhìn nhận, phát triển công nghiệp là một trong những trọng tâm trong kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng như Nghị quyết số 16/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025) của Quốc hội đều xác định mục tiêu tới năm 2025, Việt Nam sẽ là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại với tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GPP là 25% trở lên; đến năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại và 2045 là nước phát triển có thu nhập cao. Trên thế giới, những biến động về chính trị, kinh tế, xã hội trong thời gian vừa qua cũng sẽ tác động lớn đến xu thế tổ chức lại các hoạt động sản xuất toàn cầu, đồng thời xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đã và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, và dự báo thiếu hụt năng lượng trong 5-10 năm tới.

Trong khi đó, nhiều yếu kém nội tại vốn có của công nghiệp Việt Nam vẫn chưa được giải quyết một cách căn bản và còn những ảnh hưởng khá nặng nề do dịch Covid-19. Năng lực và trình độ các doanh nghiệp nội địa còn yếu, giá trị gia tăng trong các ngành công nghiệp còn thấp. Tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu còn phụ thuộc rất nhiều vào khối doanh nghiệp FDI. Chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động trong công nghiệp cỏn chưa có nhiều cải thiện.

Bên cạnh những đánh giá tích cực về hoạt động của Cục Công nghiệp trong nỗ lực đưa ngành công nghiệp tiến đến những bước phát triển mới, bộ cũng chỉ ra những thiếu xót cần khắc phục trong thời gian sắp tới, đồng thời đưa ra 6 nhiệm vụ trọng tâm phát triển làm tiền đề và định hướng nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp trong tương lai:

Một là tiếp tục tập trung phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Bộ, các hiệp hội, ngành hàng, địa phương khẩn trương tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp do đại dịch Covid – 19 gây ra. Trong đó, chú trọng triển khai hỗ trợ doanh nghiệp theo các chính sách đã được Quốc hội và Chính phủ ban hành trong thời gian qua.

Bảo đảm an toàn phòng dịch, dịch vụ sản xuất kinh doanh; Bảo đảm lưu thông hàng hóa; Đề xuất các chính sách khác (tài chính, tín dụng, lao động). Từ đó giúp doanh nghiệp sớm phục hồi sản xuất kinh doanh. Đồng thời, xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển của các Hiệp hội, doanh nghiệp phù hợp với bối cảnh mới, hậu covid -19.

Hai là tiếp tục quán triệt nghiên cứu sâu sắc trong cán bộ công chức, viên chứcvề các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước về các mục tiêu công nghiệp hóa, để khẩn trương đề xuất xây dựng Luật phát triển công nghiệp theo nhiệm vụ được Chính phủ giao tại Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30/8/2021, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Bộ trong thời gian tới. Đồng thời, phối hợp các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp nền tảng theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng như Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị.

Ba là làm tốt công tác truyền thông, nâng cao nhận thức xã hội và tạo sự đồng thuận trong quá trình xây dựng các chính sách, chương trình phát triển công nghiệp theo các chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Đồng thời, khẩn trương phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ, các địa phương (nhất là những địa phương có tiềm năng về công nghiệp) để xây dựng chiến lược, chương trình phát triển công nghiệp phù hợp với lợi thế cạnh tranh và nguồn lực của địa phương (tích hợp vào Quy hoạch vùng, tỉnh).

Trong đó, cần hướng dẫn, khuyến khích xây dựng các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp tại các địa phương có điều kiện để phát triển công nghiệp, dịch vụ. Tập trung thật cao xây dựng, vận hành hiệu quả các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp trên địa bàn cả nước để hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp tại các địa bàn trọng điểm, là đầu mối kết nối với các trung tâm, các địa phương về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, kết nối cung cầu cũng như đóng vai trò là sàn giao dịch các sản phẩm công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ trong vùng. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu trong các ngành công nghiệp để sử dụng một cách đồng bộ, thống nhất.

Bốn là tiếp tục triển khai hiệu quả chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ theo nguyên tắc sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước, với mục đích nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng trong nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị của các Tập đoàn đa quốc gia; Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực cho doanh nghiệp, đáp ứng các tiêu chuẩn sản xuất toàn cầu, nâng cao tỷ lệ tham gia chuỗi giá trị đa quốc gia của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước.

Năm là nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách, giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn trong khai thác, chế biến và sử dụng các mỏ và loại khoáng sản có quy mô lớn, giá trị cao (cromit Cổ Định, bô-xit Tây Nguyên, titan, quặng sắt…) để sớm huy động vào nền kinh tế, tạo nguồn lực triển ngành công nghiệp vật liệu và công nghiệp hỗ trợ… Hạn chế đến mức thấp nhất việc xuất khẩu thô khoáng sản.

Sáu là tập trung rà soát, sửa đổi bổ sung các cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho các dự án, lĩnh vực sản xuất công nghiệp lớn (thép, ô tô, dệt may, da-giày, thực phẩm) phục vụ xuất khẩu, tiêu dùng trong nước; sớm đưa vào vận hành, tạo năng lực cho phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Cần chú ý nghiên cứu chính sách tiếp cận 3I: Imitid (bắt chước), Initiative (cải tiến), Inovation (đổi mới, sáng tạo). “Cục Công nghiệp khẩn trương trình Lãnh đạo Bộ phương án kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý cấp Cục, phòng, đơn vị trực thuộc. Đồng thời, nghiên cứu đề xuất kế hoạch tuyển dụng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu đề xuất chính sách, quản lý giám sát hoạt động thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ rõ, hội nhập không chỉ xem từ góc độ Việt Nam tham gia các FTA mà để đầy đủ hơn cần được xem từ góc độ doanh nghiệp Việt Nam tham gia thế nào vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bởi theo Bộ trưởng hội nhập có thành công hay không, các FTA mà chúng ta có được có trở nên ý nghĩa hay không đều lệ thuộc vào lĩnh vực phát triển công nghiệp. “Việt Nam cần tạo dựng được các ngành công nghiệp mang tính nền tảng để sớm trở thành nước công nghiệp theo mục tiêu được xác định tại các nghị quyết của Đảng”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.