Nhiều
bệnh viện ở Việt Nam đã ứng dụng thành công các kỹ thuật khó, tiên tiến trên thế
giới trong ghép tạng, điều trị tim mạch, ung thư, sản phụ khoa, răng hàm mặt. Sự
phát triển này không chỉ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trong nước
mà còn thu hút nhiều người bệnh nước ngoài sang Việt Nam khám, chữa bệnh.
Nhiều
kỳ tích
PGS.TS
Nguyễn Lân Hiếu - Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội - chia sẻ: Tôi nhận được
thư cảm ơn của một sư thầy người Việt đang định cư ở châu Âu. Trong lần trở về
Việt Nam, sư thầy đã tin tưởng lựa chọn Bệnh viện Đại học Y Hà Nội để phẫu thuật
căn bệnh thoát vị đĩa đệm đa tầng mà ở châu Âu các bác sĩ đã khuyên sư thầy nhập
viện càng sớm càng tốt. Sư thầy chọn Việt Nam để phẫu thuật vì niềm tin vào sự
tiến bộ của y tế quê hương. Vết sẹo mổ tối thiểu sau gáy sẽ là kỷ niệm đẹp sư
thầy mang về nơi định cư. Nước ta có nhiều chuyên gia y tế, bác sĩ giỏi đứng
ngang hàng với đồng nghiệp ở các nước tiên tiến, có khả năng làm chủ các kỹ thuật
cao ngang tầm thế giới. Trong đó, có nhiều chuyên ngành, lĩnh vực y khoa, do
chính các bác sĩ Việt Nam làm thầy, chuyển giao kỹ thuật cho bác sĩ của các nước.
Đơn
cử, GS.TS Phạm Mạnh Hùng - Viện trưởng Viện Tim mạch Quốc gia - cùng kíp can
thiệp đã tiến hành các phương pháp đánh giá hình ảnh và sinh lý hiện đại là
siêu âm trong lòng mạch (IVUS) để đưa ra được chiến lược can thiệp tối ưu nhất.
Thành công của ca can thiệp phức tạp đã được các chuyên gia hàng đầu trong khu
vực và bạn bè quốc tế đánh giá cao về chuyên môn và sự hội nhập toàn diện của
các bác sĩ Việt Nam.
Ca
phẫu thuật nội soi một lỗ điều trị u nang ống mật cho bệnh nhi người nước ngoài
do PGS.TS Trần Ngọc Sơn - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn - thực hiện
thành công gần đây đã khẳng định vị thế, uy tín của Y học Việt Nam với bạn bè
quốc tế.
Tại Việt Nam, PGS.TS Trần Ngọc Sơn hiện là một trong hai bác sĩ đi đầu thế giới về thực hiện kỹ thuật phẫu thuật nội soi một lỗ điều trị nang ống mật chủ.
Thụ
tinh trong ống nghiệm (IVF) cũng là một trong những chuyên ngành mà Việt Nam
đang có chỗ đứng trên bản đồ Y khoa thế giới.
26
năm qua, từ khi ba em bé đầu tiên được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống
nghiệm ở Bệnh viện Từ Dũ - TPHCM vào năm 1998, đến nay, Việt Nam được biết đến
là nơi tiến hành các ca thụ tinh trong ống nghiệm nhiều nhất Đông Nam Á với hiệu
quả cao.
Bác
sĩ Hồ Mạnh Tường - Tổng Thư ký Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TPHCM - một
thành viên nhóm thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên tại Việt
Nam - cho biết, tỉ lệ thành công khi thực hiện IVF tại Việt Nam từ 40 - 45%,
chi phí chỉ bằng 1/3 so với nhiều nước trong khu vực. Chi phí thấp, bác sĩ có
trình độ tay nghề cao là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người nước
ngoài và Việt kiều tìm về Việt Nam để khám và điều trị.
Hơn
30 năm qua, kể từ ca ghép tạng đầu tiên (năm 1992) đến nay, các cơ sở y tế ở Việt
Nam đã thực hiện thành công hơn 8.000 ca ghép tạng. Trong số đó, nhiều nhất là
ghép thận, gan, tim, phổi; thận - tụy... Trình độ ghép tạng của Việt Nam ngang
tầm khu vực và thế giới. Ngay ngày 30 Tết Giáp Thìn vừa qua, 8 cuộc đời đã hồi
sinh từ nguồn hiến tạng của người cho chết não. Trong đó, các bác sĩ đã tiến
hành lấy - ghép 8 mô tạng gồm: Tim, gan, thận, thận - tụy, 2 tay, 2 giác mạc.
Cùng với việc lấy - ghép các mô, tạng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 còn bảo
quản và điều phối lá phổi của người hiến cho Bệnh viện Phổi Trung ương để ghép
phổi cho một bệnh nhân trẻ bị bệnh lý hiếm gặp, tổn thương nghiêm trọng hai phổi.
Nối
dài bàn tay ra thế giới
PGS.TS
Nguyễn Lân Hiếu cho biết, du lịch chữa bệnh là một hướng đi mà nhiều nước đã
triển khai như: Singapore, Thái Lan, Nhật, Hàn... Nhiều bệnh viện của chúng ta
đã cải tiến về dịch vụ, do đó chỉ cần xây dựng quy trình, truyền thông chăm sóc
khách hàng và sự tham gia của chính quyền về mặt cơ chế hỗ trợ. Chắc chắn sẽ có
không chỉ một mà nhiều bệnh viện thành công.
PGS.TS
Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) - nhận định:
Những năm gần đây, chất lượng khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế trong nước đã
phát triển rõ rệt. Các bác sĩ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao, đào tạo bài
bản, làm chủ nhiều kỹ thuật phức tạp ngang tầm thế giới (sử dụng robot, phẫu
thuật nội soi, ghép tạng…). Điều đặc biệt, chi phí thấp hơn các nước chính là
nguyên nhân khiến ngày càng nhiều người nước ngoài đến Việt Nam khám và chữa bệnh.
Tuy
nhiên, theo ông Lương Ngọc Khuê, mỗi năm, người Việt vẫn chi 2 tỉ USD ra nước
ngoài để khám, chữa bệnh. Bộ Y tế đã phải đưa mục tiêu thay đổi về phân bổ ngân
sách và đầu tư để giữ chân những người bệnh giàu có ở lại điều trị trong nước,
đồng thời thu hút nửa triệu người nước ngoài làm việc tại Việt Nam sử dụng dịch
vụ y tế tại Việt Nam, thay vì di chuyển sang các nước trong khu vực hoặc về nước.
Theo
chỉ tiêu của đề án, đến năm 2030, tỉ lệ bệnh viện tuyến Trung ương được công nhận
có khu điều trị quốc tế chất lượng cao là 95%; tỉ lệ tỉnh/thành phố có bệnh viện
được công nhận có khu điều trị quốc tế chất lượng cao là 80% và tỉ lệ người nước
ngoài khám, chữa bệnh tại Việt Nam tăng trưởng hằng năm từ 1% trở lên.
BLĐ