Chuyển đổi tuần hoàn chính là chìa khóa phát triển bền vững, nâng cao giá trị gia tăng và đảm bảo khả năng tồn tại, giúp các doanh nghiệp chiếm ưu thế cạnh tranh trong tương lai.
Nguyên liệu
đầu vào và tái chế hợp lý
Kinh tế tuần
hoàn là mô hình kinh tế hướng tới sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, tái
chế chất thải, góp phần bảo vệ môi trường đem lại hiệu quả kinh tế. Kinh tế tuần
hoàn gồm 3 nội dung cốt lõi: Giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường thông
qua sử dụng tối ưu nhất tài nguyên và năng lượng; tái sử dụng, sửa chữa, bảo dưỡng
kéo dài thời gian sử dụng sản phẩm; tái chế, tận dụng phế liệu, phế thải trở
thành đầu vào sản xuất.
Là một
trong những trụ cột xuất khẩu của Việt Nam, ngành công nghiệp dệt may đang nỗ lực
không ngừng để phát triển theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Trong giai đoạn
2025-2030, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu phát triển theo chiều sâu, đổi mới
sáng tạo, ứng dụng công nghệ, nâng cao năng suất, giảm phụ thuộc lao động phổ
thông.
Theo các
chuyên gia, mục tiêu áp dụng kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may gồm loại bỏ
nguyên liệu thô và phát thải vi sợi, gia tăng vòng đời sản phẩm, tái chế hợp
lý, sử dụng nguyên liệu – nhiên liệu hiệu quả và chuyển sang năng lượng tái tạo;
trongđó, bước đầu tiên - loại bỏ nguyên liệu thô và phát thải vi sợi nhựa – là
nền tảng, có ý nghĩa quan trọng cho chuỗi tuần hoàn.
"Đảm
bảo rằng nguyên liệu đầu vào an toàn và lành mạnh để cho phép luân chuyển và
tránh những tác động tiêu cực trong quá trình sản xuất, giai đoạn sử dụng và
sau sử dụng. Các nguyên liệu có liên quan đến sức khỏe hoặc môi trường được thiết
kế riêng và không sử dụng chất gây ô nhiễm nào như vi sợi nhựa, chất nhuộm, phụ
gia…",Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Thanh Phượng,Viện trưởng Viện Công
nghiệp môi trườngnhấn mạnh.
Để chuyển
sang kinh tế tuần hoàn, các doanh nghiệp dệt may cần giảm dùng sợi nguyên sinh
hóa thạch, tăng tỷ lệ polyester tái chế; phát triển sợi cellulose tái tạo thay
polyester; thiết kế sản phẩm bằng sợi đơn chất (cotton 100%, polyester 100%) để
tái chế dễ dàng; sử dụng nguyên liệu sinh học thay thế một phần polyester. Nhiều
nghiên cứu cho thấy, trong khi polyester thông thường phải mất đến 500-1.000
năm mới phân hủy hoàn toàn, thì nguyên liệu polyester tái chế khi được vùi
trong đất khả năng phân hủy đến 68,8% sau 180 ngày.
Đồng thời
chuyển đổi sang thuốc nhuộm gốc nước, ít độc hại, dễ phân hủy. Ứng dụng công
nghệ nhuộm mới như nhuộm CO₂ siêu tới hạn, nhuộm foam, nhuộm plasma.
Trong khi
đó, mục tiêu tái chế hợp lý đặt ra yêu cầu điều chỉnh quy trình thiết kế và tái
chế quần áo. Hiện nay, việc thiết kế và sản xuất quần áo thường không tính đến
điều gì sẽ xảy ra khi quần áo không thể sử dụng được nữa. Các chuyên gia cho rằng,
việc hướng tới nhiều loại vật liệu và phát triển các quy trình tái chế hiệu quả
cho những vật liệu này là một bước quan trọng trong việc mở rộng quy mô tái chế,
cũng như việc phát triển các vật liệu mới
Theo Hiệp
hội Dệt may Việt Nam (Vitas), tại Việt Nam có một số doanh nghiệp như TCM - Dệt
may Thành Công đã và đang đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt những sản phẩm
thân thiện với môi trường, những sản phẩm tái chế và những sản phẩm có giá trị
cao, có quy trình sản xuất khép kín từ sợi - dệt - nhuộm - may, phát triển bền
vững (ESG), tăng cường sử dụng 3 loại vật liệu polyester, viscose, cotton tái
chế.
Tái chế hợp
lý trong ngành dệt may còn gắn liền với yêu cầu đổi mới công nghệ, ứng dụng
công nghệ cao, công nghệ xanh để cải thiện tính kinh tế và chất lượng tái chế.
Tiến sỹ Nguyễn Thị Thanh Phượng, Viện trưởng Viện Công nghiệp môi trường, cho rằng,
cầncó một chương trình đổi mới chung để tập trung nỗ lực và đầu tư vào công nghệ
tái chế các vật liệu thông thường; cảitiến công nghệ phân loại cũng sẽ hỗ trợ
nâng cao chất lượng tái chế bằng cách cung cấp nguyên liệu được xác định rõ
ràng.
Doanh nghiệp
dệt may cũng cần đầu tư công nghệ hỗ trợ giảm thải và tái sử dụng (phần mềm tối
ưu sơ đồ cắt, hệ thống lọc nước thải – tái sử dụng nước, công nghệ thu hồi nhiệt
từ nước thải, hệ thống phân loại vải vụn tự động, công nghệ nhuộm không nước,
nhuộm ít hóa chất).
Phát triển
công nghệ xanh, sản phẩm xanh
Với vai
trò hạt nhân ngành dệt may, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đặt mục tiêu đến
2030 đạt mức tăng trưởng hai con số, phát triển bền vững theo kinh tế tuần
hoàn, xây dựng thương hiệu xuất khẩu riêng. Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT
Vinatex, cho biết các giải pháp then chốt gồm: Chuyển đổi số và xanh; đầu tư
công nghệ 4.0; tái cơ cấu doanh nghiệp; phát triển thị trường trong và ngoài nước;
nâng cao mô hình quản trị; gắn kết phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh;
xây dựng văn hóa doanh nghiệp và phát triển nhân lực toàn diện.
Hiện tỷ lệ
sản phẩm xanh của Vinatex đã đạt 25%; toàn hệ thống đã đưa vào sản xuất sản phẩm
sợi từ nguyên liệu tái chế tăng cao hàngnăm, đến năm 2024 đạt 17.864 tấn. Mô
hình sản xuất cũng được chuyển đổi mạnh mẽ từ gia công đơn thuần truyền thống
(CMT) sang các phương thức có giá trị gia tăng cao như FOB và từng bước hoàn
thiện để chuyển đổi theo phương thứcODM và OBM. Vinatex đã đầu tư các trung tâm
nghiên cứu, phát triển sản phẩm xanh, vải chức năng, chủ động thích ứng xu hướng
toàn cầu hóa.
Với mục
tiêu xanh hóa, Tổng công ty 28 (Agtex 28) cũng đã đổi mới mô hình sản xuất, ứng
dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, hoạt động khép kín từ kéo sợi, dệt vải, nhuộm
hoàn tất đến may thành phẩm và phân phối trực tiếp ra thị trường; trongđó,ngành
dệt của Agtex 28 sử dụng thiết bị và công nghệ hiện đại, tự động hóa cao, đồng
bộ từ khâu dệt vải đến nhuộm, hoàn tất, xử lý và bảo vệ môi trường, do các hãng
chế tạo thiết bị dệt may hàng đầu của Thụy Sĩ, Đức, Bỉ sản xuất. Năm 2025, đơn
vị mới đầu tư hàng loạt máy dệt của hãng Toyota – Nhật Bản, đảm bảo mục tiêu mỗi
năm đạt 3 triệu mét vải in loang, 18 triệu mvải nhuộm, 2.500 tấn sợi.
Ngành dệt
may Việt Nam hiện đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia; xuất khẩu
dệt may trị giá 44 tỷ USD năm 2024, giữ vị trí thứ hai thế giới. Mục tiêu năm
2025 đạt 47-48 tỷ USD. Đến thời điểm hiện tại dệt may Việt Nam đã mở rộng xuất
khẩu tới 132 thị trường, lớn nhất là Mỹ, tiếp theo là CPTPP, EU, Hàn Quốc,
Trung Quốc…
Hướng đi tới
kinh tế tuần hoàn của dệt may Việt Nam nhằm phát triển bền vững, bảo vệ môi trường,
sức khỏe con người, góp phần thực hiện mục tiêu chung của quốc gia và toàn cầu
về Net Zero, đồng thời còn tận dụng cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ
vững vị thế xuất khẩu hàng đầu thông qua việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về
sản phẩm xanh của nhà nhập khẩu.
Theo khuyến
cáo của Nhóm Nghiên cứu dệt may bền vững và đa năng (Đại học Khoa học Ứng dụng
Saxion, Hà Lan), chỉ riêng để hòa nhập thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam
phải đáp ứng hàng loạt quy định của luật pháp châu Âu hiện hành;trong đó,cóChỉ
thị khung về chất thải EU (yêu cầu thu gom riêng biệt chất thải dệt may vào năm
2025 ở tất cả các quốc gia thành viên EU; khuyến khích tái sử dụng và tái chế
thay vì thiêu đốt hoặc chôn lấp…); Quy định REACH (hạn chế việc sử dụng hóa chất
độc hại trong sản xuất dệt may; thúc đẩy các lựa chọn thay thế an toàn hơn và
minh bạch việc sử dụng hóa chất trong toàn chuỗi cung ứng); Chiến lược Dệt may
bền vững và tuần hoàn của EU (hướng tới các sản phẩm dệt may được đưa ra thị
trường EU cần phải bền, có thể sửa chữa và tái chế; được sản xuất chủ yếu từ sợi
tái chế; không chứa các chất độc hại).
Theo BTT