Ngày 15/6
vừa qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chủ trì Hội nghị trực tuyến về tháo gỡ
khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng
(VLXD).
Tham dự Hội
nghị tại điểm cầu chính trụ sở Chính phủ và 32 điểm cầu địa phương có Phó Thủ
tướng Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ Trần Văn Sơn, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ
Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, 32 tỉnh,
thành phố, đại diện các hiệp hội và doanh nghiệp, ngân hàng.
Với tinh
thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm, hiệu quả, cùng với các báo cáo của Bộ
Xây dựng, Bộ Công Thương, Hội nghị đã nghe các ý kiến phát biểu tâm huyết, sâu
sắc, sát thực tiễn của các đại biểu, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, các hiệp
hội, doanh nghiệp.
Các đại biểu
đã tập trung đánh giá, phân tích kỹ lưỡng tình hình sản xuất, tiêu thụ xi măng,
sắt thép và VLXD thời gian qua; thống nhất đánh giá về những kết quả đạt được;
thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân,
như về sản xuất, tiêu thụ trong nước, xuất khẩu, tài chính; đề xuất các nhiệm vụ,
giải pháp trọng tâm, đột phá, vai trò, trách nhiệm cụ thể của các cấp, các
ngành trong giải quyết các điểm nghẽn để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhằm thúc
đẩy sản xuất, tiêu thụ, phát triển bền vững ngành xi măng, sắt thép VLXD tại Việt
Nam.
Tổng giá
trị doanh thu hằng năm ngành VLXD đạt 47 tỷ USD
Theo Thủ
tướng, hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép, VLXD thời gian qua đã đạt
những kết quả rất đáng trân trọng, mang lại hiệu quả, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội.
Sản lượng
xi măng, gạch ốp lát thuộc nhóm tốp đầu trên thế giới. Sản xuất thép thô của Việt
Nam hiện đứng thứ 13 trên thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Trình độ công nghệ,
tổ chức sản xuất, kinh doanh, môi trường của ngành công nghiệp VLXD Việt Nam đứng
tốp đầu trong các nước ASEAN. Chất lượng VLXD Việt Nam bảo đảm đáp ứng các tiêu
chuẩn quốc tế.
Tổng giá
trị doanh thu hằng năm ngành VLXD xi măng, sắt thép ước đạt gần 47 tỷ USD, chiếm
khoảng 11 % GDP quốc gia. Các nhà máy VLXD, xi măng, sắt thép Việt Nam ngày
càng được đầu tư bài bản, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và một phần xuất
khẩu, khắc phục tình trạng thiếu VLXD, xi măng, sắt thép trong xây dựng thời kỳ
trước năm 2010.
Thủ tướng
nêu rõ, đạt được những kết quả đáng ghi nhận đó là nhờ có sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc
hiệu quả của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành; đặc biệt là các địa
phương, các doanh nghiệp, đội ngũ nhân lực sáng tạo, những người hoạt động
trong ngành xi măng, sắt thép, VLXD.
Thay mặt
Chính phủ, Thủ tướng đánh giá cao, biểu dương những nỗ lực, cố gắng và chúc mừng
những kết quả đáng ghi nhận đã đạt được thời gian qua, nhất là Bộ Xây dựng, Bộ
Công Thương với vai trò là cơ quan đầu mối thực hiện Chiến lược phát triển xi
măng, sắt thép, VLXD của Việt Nam.
Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ xi măng, sắt thép,
VLXD còn có những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc.
Cơ chế,
chính sách còn khoảng cách so với thực tiễn, phản ứng chính sách có lúc, có nơi
còn chậm. Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất VLXD ứng dụng khoa học
công nghệ chưa được ban hành kịp thời.
Đối với sản xuất, chi phí nhiên liệu than, điện tăng; khí hóa than tăng, dầu FO, khí tự nhiên hóa lỏng (CNG), khí gas hóa lỏng (LPG) trong thời gian qua có biến động. Nguồn cung nguyên liệu phục vụ sản xuất xi măng, VLXD còn có bất cập.
Ngành thép
năng lực sản xuất còn hạn chế, Việt Nam tiếp tục là quốc gia nhập siêu về thép,
phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài, đặc biệt trong sản xuất thép
thô. Ngoại trừ một số khu liên hợp công nghệ khép kín, phần lớn các đơn vị sản
xuất còn lại sử dụng công nghệ còn hạn chế.
Sức ép bảo
vệ môi trường, biến đổi khí hậu tăng. Cam kết giảm phát thải tại Hội nghị COP26
dẫn đến yêu cầu các nhà sản xuất VLXD, đặc biệt là xi măng phải đầu tư các hạng
mục liên quan đến xử lý khí thải, giảm thiểu CO2 làm tăng chi phí sản xuất.
Về thị trường,
cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đều gặp khó khăn. Tiêu thụ trong nước chậm
do đầu tư xây dựng trong nước giảm sút; thị trường bất động sản trong nước trầm
lắng; chí phí vận tải tăng cao;…
Xuất khẩu
sụt giảm do lượng clinke xuất khẩu sụt giảm lớn; gặp cạnh tranh gay gắt về giá
bán sản phẩm từ các nhà sản xuất lớn trên thế giới; chi phí cước vận tải biển
tăng cao, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại phần lớn thị trường xuất
khẩu.
Tình hình
tài chính của ngành gặp khó khăn do các doanh nghiệp sản xuất VLXD, đặc biệt
các doanh nghiệp xi măng đầu tư vốn rất lớn vào dự án sản xuất; giai đoạn đầu
khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi
vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi rất lớn.
Do tiêu thụ
sản phẩm chậm trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số
dây chuyền sản xuất sản phẩm, dẫn đến dòng tiền tài chính để trả nợ cho ngân
hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất rất khó khăn. Nhiều nhà máy
VLXD, đặc biệt là nhóm xi măng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ, dẫn đến nợ xấu.
Tình trạng
buôn lậu, giân lận thương mại, hàng giả hàng nhái liên quan tới VLXD chưa được
giải quyết triệt để.
Thủ tướng
khẳng định thời gian tới, để ngành xi măng, sắt thép, VLXD phát triển bền vững,
phát huy hiệu quả và đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
mục tiêu tăng trưởng năm 2024, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa
phương và các cơ quan liên quan thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển
VLXD Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 (Quyết định số
1266/QĐ-TTg), Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng
sản làm VLXD thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số
1626/QĐ-TTg), Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng
sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 866/QĐ-TTg), cũng
như thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án đầu tư công, các dự án hạ tầng; đề án
đầu tư 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội…
Về quan điểm,
Thủ tướng nêu rõ, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh vật liệu phát triển nhanh, bền
vững, công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải tôn trọng thực tiễn, bám sát thực tiễn,
xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo, kịp thời phản ứng chính
sách với các vấn đề nổi lên, những khó khăn, vướng mắc, tổ chức thực hiện quyết
liệt, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt điểm việc đó.
Phát triển
ngành xi măng, sắt thép, VLXD phải bảo đảm hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản
nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu khi tiêu thụ trong nước giảm sút, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp cận
và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý nhất là cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất; nâng cao chất lượng sản phẩm;
đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao, đáp
ứng nhu cầu xây dựng.
Sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trong
sản xuất; khai thác sử dụng tiết kiệm khoáng sản; áp dụng kinh tế tuần hoàn, sử
dụng tối đa các chất thải, phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây
dựng và chất thải sinh hoạt làm nguyên liệu, nhiên liệu, phụ gia cho quá trình
sản xuất; sản xuất xanh, hạn chế tối đa ảnh hưởng tới môi trường trong quá
trình khai thác, chế biến khoáng sản và sản xuất VLXD, xi măng, sắt thép.
Phát huy,
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển xi măng, sắt
thép, VLXD; đẩy mạnh đầu tư công để tiêu thụ sản phẩm của các ngành VLXD.
Phân bổ mạng
lưới cơ sở sản xuất xi măng, sắt thép, VLXD trên toàn quốc phù hợp với điều kiện
về tự nhiên, xã hội của từng vùng miền.
Phát triển nhà ở xã hội, tăng sử dụng cầu cạn với các cao tốc
Thủ tướng
chỉ rõ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, mà trước hết là nhóm
các giải pháp chung.
Theo đó,
phải rà soát, tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách; các bộ, ngành, địa
phương, doanh nghiệp, hiệp hội phải chủ động, linh hoạt, vận dụng sáng tạo chủ
trương, đường lối chính sách, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo,
theo dõi sát, tăng cường năng lực dự báo các yếu tố tác động trong và ngoài nước
để có các phương án chủ động ứng phó một cách kịp thời nhằm hỗ trợ doanh nghiệp
kinh doanh xi măng, sắt thép, VLXD ổn định sản xuất và mở rộng thị trường.
Đẩy mạnh đầu
tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng
đô thị, nông thôn, các công trình quốc phòng, an ninh; công trình biển và hải đảo
phục vụ phát triển kinh tế biển; các công trình ứng phó biến đổi khí hậu.
Tháo gỡ
khó khăn cho thị trường bất động sản, nhà ở: Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số
33/NQ-CP ngày 11/3/2023; tiếp tục thực hiện quyết liệt, kịp thời, hiệu quả các
giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững.
Tăng cường
triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng
thu nhập thấp, nhà ở công nhân trong khu công nghiệp và các chương trình, dự án
xây dựng nhà ở khác. "Đây là giải pháp căn cơ, toàn diện, nhân văn, có hiệu
quả ngay, tạo đồng thuận cao trong xã hội và trong nhân dân", Thủ tướng
nói.
Cùng với
đó, tăng tỉ lệ lựa chọn phương án sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép đối với các
dự án đường bộ cao tốc, đặc biệt là ở những vùng có yêu cầu thoát lũ, vùng đất
yếu và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường như vùng Đồng bằng sông Cửu
Long; tăng cường sử dụng công nghệ gia cố đất bằng xi măng trong xây dựng đường
bộ để nâng cao chất lượng, tuổi thọ đường, đồng thời sử dụng nguồn xi măng
trong nước. Tăng cường sử dụng đường bê tông xi măng cho xây dựng đường nông
thôn, miền núi và đường tại những vùng thường xuyên ngập lụt.
Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn để giảm
giá thành, nâng năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm; chống buôn
lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái; có rào cản kỹ thuật để giảm nhập
khẩu, nâng cao chất lượng, tạo cạnh tranh tốt hơn.
Về các giải
pháp cụ thể đối với doanh nghiệp, Thủ tướng đề nghị tái cấu trúc quản trị, tài chính, đầu
tư và nguyên liệu đầu vào để nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của
sản phẩm.
Cụ thể, đầu
tư nâng cấp, cải tạo chiều sâu đối với công nghệ, thiết bị của các nhà máy sản
xuất VLXD hiện có để tiết giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng, tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, giảm phát thải. Đầu tư các hệ thống phát
điện tận dụng nhiệt dư trong sản xuất các sản phẩm VLXD, đặc biệt là trong các
nhà máy sản xuất clinke và xi măng, để sử dụng cho sản xuất, tiết giảm chi phí
điện năng. Đầu tư sử dụng rác thải để thay thế nhiên liệu đốt, sử dụng phế thải
công nghiệp để thay thế nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên để giảm chi phí
nguyên, nhiên liệu trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đầu tư các trạm nghiền
xi măng tại các vùng thuận tiện về giao thông, cảng biển, có nguồn khoáng sản
phụ gia làm xi măng, có nguồn phát thải tro, xỉ, thạch cao,…
Về sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm VLXD, phù hợp các
loại hình công trình xây dựng, điều kiện khí hậu khác nhau, đáp ứng nhu cầu thị
trường. Rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu
than, điện, dầu, khí đốt. Vận dụng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần
hoàn, đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng
cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm.
Áp dụng
các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong sản xuất, tận dụng
các nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải từ các ngành khác để hạ chi phí sản xuất.
Sản xuất VLXD, đặc biệt là clinke, xi măng, kết hợp giải pháp đồng xử lý rác thải
công nghiệp, sinh hoạt để bảo vệ môi trường.
Về công
tác quản trị và thị trường, tăng cường tiêu thụ VLXD trong nước thông qua triển khai tại các dự án
lớn, dự án đầu tư công, công trình xây dựng thủy lợi, phòng chống thiên tai,…
cũng như các hộ dân xây dựng, sửa chữa nhà ở đô thị và nông thôn.
Rà soát lại
hệ thống đại lý bán hàng; cắt giảm các bộ phận, các khâu trung gian từ nhà máy
sản xuất tới khách hàng tiêu thụ sản phẩm; rà soát tiết giảm các chi phí bán
hàng phù hợp. Tìm kiếm, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm
VLXD với nhiều nước trên thế giới. Các doanh nghiệp VLXD, đặc biệt là xi măng bảo
đảm cạnh tranh lành mạnh với giá bán linh hoạt, phù hợp.
Về tài
chính, cơ cấu lại nguồn vốn, tiết giảm chi phí để bảo đảm dòng tiền trả nợ
ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu đầu vào, nhân công và các chi phí khác
trong sản xuất. Sử dụng linh hoạt nguồn vốn, nguyên tắc là không sử dụng các
nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư vào danh mục đầu tư trung và dài hạn. Chủ động
trao đổi với các ngân hàng để khoanh, giãn nợ và có kế hoạch, lộ trình trả nợ để
bảo đảm an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Sử dụng các nguồn vốn để
thanh toán các khoản vay cũ lãi suất cao và vay các khoản vay mới lãi suất thấp
để tiết giảm chi phí tài chính.
Thủ tướng
cũng chỉ rõ các giải pháp về hoàn thiện thể chế, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
các quy định.
Về tháo gỡ
khó khăn tài chính, Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rà soát, đánh giá, sửa đổi
các quy định về khoanh nợ, giãn nợ, hạ lãi suất ngân hàng đối với các khoản nợ
của các doanh nghiệp ngành VLXD cho phù hợp với năng lực thực hiện nghĩa vụ tài
chính hiện nay (Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023).
Thủ tướng
giao Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng
xây dựng, ban hành chính sách ưu đãi cụ thể đối với các nhà máy sản xuất xi
măng và các nhà máy sản xuất VLXD khác khi sử dụng các loại nhiên liệu thay thế
từ rác thải và sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công
nghiệp như tro xỉ, thạch cao nhân tạo,… trong sản xuất xi măng. Quy định chặt
chẽ trách nhiệm của chủ nguồn thải về chi trả chi phí vận chuyển và xử lý rác
thải, tro xỉ, thạch cao,… để làm nhiên liệu, nguyên liệu trong sản xuất xi măng
và sản xuất VLXD khác.
Các bộ,
ngành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách thuế để khuyến
khích sản xuất trong nước và hạn chế nhập khẩu, bảo đảm tính cạnh tranh và phù
hợp với các cam kết quốc tế.
Về quản lý
Nhà nước đối với lĩnh vực xi măng, Bộ Xây dựng nghiên cứu đề xuất thiết lập lại
Quy hoạch lĩnh vực xi măng để bổ sung vào Luật Quy hoạch (sửa đổi) trong thời
gian tới.
Bộ Xây dựng
nghiên cứu thực hiện biện pháp về phòng vệ thương mại, chống bán phá giá đối với
các sản phẩm gạch ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng nhập khẩu, bảo đảm phù hợp
với những quy định trong tự do thương mại của WTO.
Bộ Giao
thông vận tải chỉ đạo các chủ đầu tư sử dụng giải pháp cầu cạn bê tông cốt thép
đối với các dự án đường bộ cao tốc trên cơ sở nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng,
phù hợp với từng dự án, đoạn tuyến cụ thể, bảo đảm hiệu quả cao nhất và bảo vệ
môi trường.
Thủ tướng
yêu cầu và kêu gọi các bộ, ngành và địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của
mình chủ động, kịp thời, linh hoạt, hiệu quả thực hiện các công việc, không đùn
đẩy, không né tránh, tập trung triển khai các các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
và giải quyết các đề xuất, kiến nghị tại hội nghị để xử lý, tháo gỡ khó khăn,
thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép, VLXD trong năm 2024 và để phát
triển ngành xi măng, sắt thép, VLXD trong thời gian tới, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng trong năm 2024 và các năm tiếp theo.
Theo BCP