Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa
ký Quyết định 165/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn
đến năm 2030.
Theo đó, Mục tiêu tổng quát của Đề án là tái cơ cấu ngành Công Thương nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị
gia tăng và năng lực cạnh tranh của ngành. Tạo lập các động lực tăng trưởng mới
gắn với chuyển biến về chất mô hình tăng trưởng của ngành Công Thương cùng một
mô hình quản trị nhà nước năng động, hiệu quả, hiện đại và có tính thích ứng
cao để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững.
Phấn đấu đến năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm quốc gia có
năng lực cạnh tranh công nghiệp cao.
Về mục tiêu cụ thể, Đề án đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng giá trị gia
tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế
tạo trong GDP đạt khoảng 30% vào năm 2030.
Đảm bảo cân đối cung cầu về năng lượng với
tỷ lệ tiêu hao năng lượng tính trên đơn vị GDP giảm 1 - 1,5%/năm; duy trì thặng
dư cán cân thương mại với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao hơn nhập khẩu
và tăng bình quân khoảng 6 - 8%/năm.
Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khoảng 13,0 - 13,5%/năm.
Kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả
chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu
Đề án đề ra tái cơ cấu ngành công nghiệp;
tái cơ cấu ngành năng lượng; tái cơ cấu lĩnh vực xuất nhập khẩu; tái cơ cấu thị
trường trong nước; hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong đó, về tái cơ cấu ngành công nghiệp,
kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu,
chú trọng phát triển theo chiều sâu, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư và lợi thế thương mại để tạo bước đột phá trong
nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, giá trị gia tăng nội địa
của sản phẩm. Phấn đấu tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình
quân 7,5%/năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng bình quân 8,5 - 9%/năm.
Tập trung phát triển hoàn chỉnh hệ thống sản
xuất công nghiệp trong nước thông qua việc nâng cấp và phát triển chuỗi cung ứng,
chuỗi giá trị của các ngành công nghiệp. Chú trọng nội địa hoá chuỗi cung ứng
các ngành công nghiệp để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên
vật liệu và tăng cường tính tự chủ, nâng cao giá trị gia tăng nội
địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt
Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Xanh hóa các ngành công nghiệp, đảm bảo
sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên và năng lượng trong các ngành công
nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp từ
các ngành thâm dụng tài nguyên, lao động sang các ngành thâm dụng vốn và công
nghệ, các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp các bon thấp; từ các công đoạn có
giá trị gia tăng thấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá
trị toàn cầu và khu vực. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp chế biến,
chế tạo trong GDP khoảng 30% với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 9 -
10%/năm; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế
biến, chế tạo đạt trên 45%.
Trong đó, đối với các ngành công nghiệp
công nghệ cao, ưu tiên phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột
phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn liền với khoa học công nghệ, đổi
mới sáng tạo và chuyển đổi số để đi tắt, đón đầu trong phát triển một số ngành,
sản phẩm, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao.
Tập trung phát triển các sản phẩm công
nghiệp quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và các ngành kinh tế sáng
tạo, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao, trọng tâm
"Make in Viet Nam", sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt
Nam, tích hợp thành sản phẩm thương mại tại Việt Nam.
Đối với công nghiệp hỗ trợ đẩy mạnh phát
triển công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn như:
điện tử, ô tô, dệt may, da giày, cơ khí, công nghệ cao… và tăng cường khả năng
đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do
(FTA). Phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ đáp ứng 70% nhu cầu sản xuất
trong nước.Tăng cường làm chủ công nghệ cốt lõi, tạo dựng thương hiệu
Việt Nam, sử dụng công nghệ Việt Nam và gắn kết hiệu quả với mạng lưới
chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài....
Ưu tiên phát triển xuất khẩu các mặt hàng có quy mô xuất
khẩu lớn, lợi thế cạnh tranh cao
Về tái cơ cấu lĩnh vực xuất nhập khẩu, tập
trung ưu tiên phát triển xuất khẩu các mặt hàng có quy mô xuất khẩu lớn, lợi thế
cạnh tranh cao (điện tử, dệt may, da giày, nông sản, đồ gỗ...) gắn với đa dạng
hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng
hóa có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, tỷ lệ nội
địa hoá lớn, đáp ứng tiêu chuẩn cao về chất lượng và phát triển bền vững của
các thị trường.
Trong đó, với nhóm hàng nhiên liệu, khoáng
sản, giảm dần xuất khẩu đối với khoáng sản quan trọng kể cả dưới dạng tinh quặng.
Với nhóm hàng nông, lâm, thủy sản, nâng
cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng, mở rộng thị trường và thương hiệu
hàng hóa của Việt Nam. Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế
biến sâu, chất lượng cao và các sản phẩm công nghệ cao. Nâng cao khả năng đáp ứng
các quy định, tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn
trách nhiệm xã hội, môi trường, phát thải các bon thấp và lao động.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo:
Tiếp tục mở rộng xuất khẩu để khai thác có hiệu quả tiềm năng thị trường gắn với
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
cao, có tỷ lệ nội địa hoá lớn và đáp ứng tiêu chuẩn cao về tiêu chuẩn chất lượng
và phát triển bền vững của các thị trường. Nâng cao thị phần xuất khẩu của các
doanh nghiệp trong nước. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa
công nghiệp chế biến chế tạo lên khoảng 90%, trong đó tỷ trọng xuất khẩu hàng
hóa công nghệ trung bình và cao tăng lên khoảng 70%.
Còn với nhóm hàng mới, rà soát các mặt
hàng mới có kim ngạch hiện nay còn thấp nhưng có tiềm năng tăng trưởng cao
trong thời gian tới để có các chính sách khuyến khích phát triển, tạo sự đột
phá trong xuất khẩu như các sản phẩm Halal sang các thị trường Hồi giáo, sản phẩm
Kosher sang thị trường Do thái, các loại quả tươi sang thị trường châu Âu và
Hoa Kỳ, các loại hàng hóa xanh và tuần hoàn, thân thiện môi trường và khí hậu,
hàng hóa môi trường và các bon thấp.... Phấn đấu đến năm 2030 có thêm khoảng 10
nhóm sản phẩm gia nhập nhóm 1 tỷ USD.
Tăng cường đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
để không phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường và giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực
từ các cuộc xung đột thương mại. Chú trọng phát triển xuất khẩu qua thương mại
điện tử xuyên biên giới, hệ thống phân phối nước ngoài.
Theo
BCP