Ông Kim Huat Ooi, Phó Chủ tịch Sản xuất, Chuỗi Cung ứng và Vận hành kiêm Tổng Giám đốc Intel Products Vietnam, đã trao đổi về tham vọng bán dẫn của Việt Nam và đóng góp của Intel trong việc đưa đất nước trở thành trung tâm sản xuất và R&D toàn cầu.
Ông Kim Huat Ooi, Phó Chủ tịch Sản xuất, Chuỗi Cung ứng và Vận hành kiêm Tổng Giám đốc Intel Products Vietnam.
Ông đánh giá thế nào về thực trạng nguồn nhân lực công nghệ cao, đặc biệt
là ngành bán dẫn ở Việt Nam và mục tiêu xây dựng đội ngũ 50.000 kỹ sư trong
lĩnh vực bán dẫn của đất nước?
Hãy quay trở lại năm 2006, khi Intel đến với tư cách là những người tiên
phong và giúp Việt Nam thu hút nhiều nhà đầu tư khác, chẳng hạn như Samsung,
Nokia và nhiều công ty khác. Và đến thời điểm này, vẫn đang thu hút rất nhiều
nhà đầu tư. Hiện tại, Việt Nam đang xem xét cách tạo thêm 50.000 chuyên gia bán
dẫn vào năm 2030 để hỗ trợ sự phát triển của mình.
Trên cơ sở đó, Việt Nam có tham vọng lớn để cố gắng phát triển. Tất cả
chúng ta đều biết rằng chất bán dẫn, đặc biệt là trong thời kỳ đại dịch, là một
ngành quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào.
Nếu bạn nhìn vào, mọi người đang học tập và làm việc tại nhà. Tất cả các
công nghệ số hóa đều cần rất nhiều chất bán dẫn.
Ngày nay, ngành này trị giá khoảng 500 tỷ USD. Con số này sẽ tăng gấp đôi
lên khoảng 1 nghìn tỷ USD vào năm 2030, thu hút nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ,
Châu Âu và Việt Nam, những người muốn tham gia vào hành trình thú vị này. Những
gì Chính phủ đã vạch ra là hướng đi đúng đắn. Và Intel chắc chắn có thể đóng một
vai trò trong tất cả những điều này.
Tôi muốn nhấn mạnh một vài điều. Tôi nghĩ 50.000 là mục tiêu tốt vì bạn cần
con người.
Việt Nam có rất nhiều lợi thế khiến chúng tôi đến đây 18 năm trước. Việt
Nam có sự ổn định chính trị và một vị trí chiến lược. Và Chính phủ rất chú trọng
đến giáo dục về mặt đào tạo. Vì vậy, chúng tôi có sự hợp tác giữa chính phủ,
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Intel và trường đại học. Tôi nghĩ đó
là một sự kết hợp rất tốt.
18 năm trước, khi chúng tôi bắt đầu, chúng tôi đã giúp hiện đại hóa hệ thống
giáo dục. Vào thời điểm nêu ra, mang tính lý thuyết nhiều hơn, và sau đó chúng
tôi đã làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo để cập nhật một số nội dung đó.
Và chúng tôi rất tự hào chia sẻ điều đó thông qua HEEAP (Chương trình Liên
minh Giáo dục Kỹ thuật Đại học). Chúng tôi đã đầu tư khoảng 22 triệu USD để hiện
đại hóa chương trình giảng dạy.
Bạn biết đấy, một số chương trình này đã được công nhận ở Châu Á và các tổ
chức kỹ thuật, cho phép chúng tôi có thêm nhiều kỹ sư sẵn sàng cho ngành. Sau
khi tốt nghiệp, nhiều người trong số họ có thể làm việc ở một số bộ phận mà
ngành này cần. Điều đó tốt.
Nhưng ngày nay có rất nhiều sự phát triển, như AI. Intel là một phần của
trí tuệ nhân tạo . Chúng tôi đã giới thiệu PC AI. Vì vậy, phần AI là một ví dụ
điển hình về việc đất nước cần liên tục nâng cấp bản thân để chuẩn bị cho những
gì sắp tới và còn rất nhiều cơ hội cho điều đó.
Gần đây, chúng tôi cũng đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) với Đại học Công nghệ Hồ Chí Minh để bắt tay vào hành trình AI này. Chúng tôi đang làm việc với trường đại học về những thay đổi trong chương trình giảng dạy để đảm bảo rằng chương trình giảng dạy mới hơn tập trung hơn vào các công nghệ mới nổi mà ngành công nghiệp cần.
Là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực này và có bề dày lịch sử tại Việt
Nam, liệu Intel có được hưởng lợi từ các chính sách hỗ trợ và nguồn nhân lực chất
lượng cao tại Việt Nam?
Hãy quay trở lại 18 năm trước khi chúng ta xem xét vị trí. Có một vài lựa
chọn. Chúng tôi đã nói về Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam, nhưng tin tốt là chúng
tôi thực sự đã kết thúc ở đây. Tôi nghĩ đó là một cuộc hành trình tuyệt vời và
có một vài lý do nếu bạn nhìn vào. Đó chắc chắn là một sự ổn định chính trị và
điều đó mang lại một nền tảng khá tốt.
Cả nước, đặc biệt là lãnh đạo TP.HCM, đã có nhiều tầm nhìn xa rằng công nghệ
bán dẫn công nghệ cao sẽ mang lại lợi ích cho thành phố và đất nước. Và đó là
lý do tại sao chính phủ khuyến khích chúng tôi thành lập nhà máy sản xuất đầu
tiên.
Ngày nay, chúng tôi có khoảng 6.500 công nhân công nghệ cao và 2.400 nhân
viên trực tiếp của Intel. Công nhân công nghệ cao thường kiếm được mức lương
cao hơn những công nhân sử dụng nhiều lao động khác trong ngành giày. Đồng thời,
Việt Nam có dân số đông. Ngoài Trung Quốc, 100 triệu người thực sự là một dân số
khổng lồ. Cùng với đó, mức lương rất hợp lý.
Điều đó cũng cho phép Intel và người lao động địa phương tham gia nghiên cứu
& phát triển (R&D). Tôi vui mừng chia sẻ rằng bên cạnh việc sản xuất,
chúng tôi cũng đang thực hiện một phần đáng kể việc giới thiệu sản phẩm mới, đó
là lĩnh vực R&D.
Một trong những điều chúng tôi đã làm là sử dụng công nghệ đóng gói 3D có
tên Foveros. Điều đó mang lại nhiều nội dung kỹ thuật, cho phép các kỹ sư địa
phương của chúng tôi đóng góp về mặt kỹ thuật cho sự phát triển của Intel trên
dòng sản phẩm cụ thể.
Thông qua những nỗ lực, kỹ sư của chúng tôi đã tìm thấy tài sản trí tuệ ở Mỹ
đối với một số phát minh trong quá trình làm việc ở Việt Nam.
Chúng tôi đang áp dụng một số mô hình ở Mỹ và nhận được nhiều sự công nhận
tốt cho những gì chúng tôi làm.
Dựa trên kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam, ông nghĩ những thách thức mà
Việt Nam gặp phải trong việc đáp ứng nhu cầu lao động trong lĩnh vực này là gì?
Tôi muốn đề cập đến điều mà chúng tôi gọi là sản xuất thử nghiệm lắp ráp từ
phía sau, không bao gồm chế tạo. Một nhà máy chế tạo có lẽ trị giá khoảng 20 tỷ
USD. Hiện tại, Việt Nam chưa ở giai đoạn đó nhưng tôi nghĩ Việt Nam còn rất nhiều
tham vọng tốt đẹp. Theo thời gian, Chính phủ muốn thúc đẩy chuỗi giá trị liên
quan đến thiết kế chip chẳng hạn. Sau khi thiết kế chip, bước tiếp theo là chế
tạo, lắp ráp và thử nghiệm. Đó chính là điều mà Intel Việt Nam đang làm hiện
nay.
Thách thức là làm thế nào chúng ta có được tài năng và nguồn lực con người
bên ngoài hệ thống hỗ trợ. Mặc dù mặt sau khá phức tạp. Những gì chúng tôi làm
trong quá trình lắp ráp và thử nghiệm đòi hỏi độ chính xác đến từng micron.
Nhưng có những lĩnh vực chúng tôi thực sự cần một nguồn nhân tài lớn hơn trong
kế hoạch hiện tại của mình. Chúng tôi có thể có khoảng 3% nhân lực tham gia vào
việc giới thiệu sản phẩm mới này và hoạt động R&D.
Nhưng với tư cách là một quốc gia, chúng ta cần một nguồn nhân tài lớn hơn
để phát triển hơn thế nữa, vì vậy tôi đề nghị chúng ta nên có nhiều lao động có
bằng thạc sĩ và tiến sĩ.
Theo thời gian, phần giáo dục đó sẽ trở nên quan trọng hơn vì chúng ta cần
nhiều người hơn, những người sẽ được phát triển liên tục. Điều đó đòi hỏi trình
độ kiến thức kỹ thuật chuyên sâu tiếp theo cần thiết để có được chuyên môn
đó.
Khía cạnh khác cũng là làm thế nào để có thể tăng cường sự hợp tác giữa Intel, các trường đại học và Bộ Giáo dục và Đào tạo để hiện đại hóa chương trình giảng dạy, có thể đáp ứng nhu cầu trong tương lai của ngành bán dẫn, bao gồm R&D, thiết kế chip, hoặc một ngày nào đó, có thể được chế tạo đòi hỏi nhiều vốn. Nhưng ngoài vốn, nguồn nhân lực cần có sự chuyên môn hóa cao hơn để đạt được tham vọng tham gia vào nhiều khâu hơn của ngành bán dẫn.
Ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam đã có kế hoạch tăng nhanh số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực bán dẫn, đặc biệt là kỹ thuật
thiết kế chip. Theo ông, quy hoạch có nên ưu tiên phát triển đào tạo nhân tài ở
các thành phố lớn có thế mạnh như Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng? Ông có thể giải
thích lý do?
Tốt nghiệp cho 50.000 chuyên gia bán dẫn là mục tiêu đúng đắn vì trong nước
đang rất quan tâm đến đầu tư công nghệ cao.
Để đạt được mục tiêu này, chính phủ nên tiếp tục đầu tư vào giáo dục và đào
tạo để cung cấp nguồn nhân lực tương lai cho ngành. Tăng cường sự hợp tác giữa
chính phủ, các tổ chức giáo dục và các nhà đầu tư, trong đó có Intel, để đảm bảo
Việt Nam có đủ nguồn nhân lực chất lượng để thành công trong ngành bán dẫn.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, chính sách khuyến khích FDI phải
đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư. Đầu tư nước ngoài có thể giúp mang lại công nghệ
mới, chuyên môn và các chuyên gia giỏi nhất có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh
vực bán dẫn, giúp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực công
nghệ cao.
Sau đó, tôi nghĩ câu hỏi tiếp theo mà chúng tôi tự hỏi mình là vị trí nên ở
đâu. Và tôi nghĩ ba địa điểm bạn đề cập là điểm khởi đầu rất tốt. Đây là nơi tập
trung nhiều công ty lớn.
Bạn có những nhà đầu tư phù hợp và sự ưu tiên từ chính phủ. Những nơi này
cũng là nơi có nhiều trường đại học nổi tiếng. Trường Đại học Công nghệ cũng tập
trung khá nhiều ở ba địa điểm này. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng của Thành phố Hồ Chí
Minh] rất phát triển về giao thông, mạng lưới, v.v.
Tôi nghĩ đúng là chúng ta nên bắt đầu từ đó, nơi có hầu hết các nhà đầu tư.
Và cùng với sự quan tâm của chính phủ và các nhà đầu tư hiện tại, mối quan hệ hợp
tác đó có thể kết hợp với nhau để bắt đầu mọi thứ.
Vì vậy, những địa điểm này là điểm khởi đầu tốt cho việc cải tiến chương
trình giảng dạy nhằm đảm bảo rằng sinh viên tốt nghiệp sẽ sẵn sàng làm việc nhờ
sự hợp tác giữa các trường đại học, các công ty như Intel và Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Thứ hai, các công ty như Intel có thể cung cấp chương trình thực tập để
sinh viên có thể tiếp xúc với những thách thức xảy ra trong công ty. Họ cũng có
thể hợp tác với chúng tôi để thực hiện nghiên cứu trong năm học nhằm giải quyết
một số vấn đề khó khăn.
Sau khi trải qua quá trình tiếp xúc và tốt nghiệp, họ sẽ sẵn sàng quay lại
công ty và trở thành nhân viên. Chúng tôi có rất nhiều nhân viên đã tốt nghiệp
Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi cũng phân công các sinh viên
tốt nghiệp của trường quay lại và chia sẻ kinh nghiệm khi làm kỹ sư với các
sinh viên hiện tại, chẳng hạn như những gì họ đã học được và những thách thức.
Vì vậy, tôi thấy rất nhiều điều tốt đẹp trong mối quan hệ hợp tác đó, thậm chí có thể đẩy nhanh tiến độ đào tạo 50.000 chuyên gia bán dẫn mà đất nước muốn đào tạo vào năm 2030.
Vai trò của Intel trong việc phát triển lực lượng lao động bán dẫn của Việt
Nam là gì? Ông có kế hoạch và kỳ vọng gì trong việc xây dựng lực lượng lao động
công nghệ cao có tay nghề cao để hỗ trợ ngành điện tử và bán dẫn của Việt Nam?
Từ chỗ chỉ sản xuất một sản phẩm vào năm 2010, IPV hiện có thể sản xuất các
sản phẩm phức tạp, công nghệ cao. Khi sản xuất mở rộng, lực lượng lao động cũng
vậy. Năm 2023, IPV đã tạo ra hơn 6.500 việc làm, với khoảng 2.400 nhân viên trực
tiếp, gấp đôi số lượng vào năm 2016. IPV đã tham gia nhiều hơn vào hoạt động hợp
tác nghiên cứu và sản xuất với các trung tâm nghiên cứu của Intel trên toàn thế
giới. Đây là minh chứng cho tay nghề và trình độ công nghệ của lực lượng lao động
IPV.
Năm 2010, hầu hết giám đốc kỹ thuật của nhà máy đều là người nước ngoài.
Nhưng 11 năm sau, 95% lực lượng lao động là người Việt Nam, nắm giữ các vị trí
từ chuyên viên sản xuất đến quản lý bộ phận và thậm chí cả ban giám đốc nhà
máy.
Có một số trường đại học đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi.
Điều này cho phép các nhà đầu tư, bao gồm cả Intel, tận dụng đòn bẩy và phát
triển. Như tôi đã đề cập, khoảng 3% lực lượng lao động tham gia vào hoạt động
R&D.
Với nguồn nhân lực lớn hơn, chúng tôi có kế hoạch tăng số lượng người ngoài
ngành sản xuất thông thường và tham gia nhiều hơn vào R&D. Chúng tôi quan
tâm và đã nói chuyện với Bộ Tài chính và Bộ Công Thương về những suy nghĩ của
chúng tôi.
Đồng thời, Việt Nam có luật đầu tư công nghệ cao cho phép các công ty như
Intel đầu tư. Việt Nam cũng có đội ngũ kỹ sư thiết kế chip khá lớn. Hiện tại,
chúng tôi có người trong nhóm kỹ thuật thiết kế chip tại Intel Việt Nam. Nhóm
này là thành viên của nhóm kỹ thuật thiết kế chip tại Intel Malaysia. Chúng tôi
dự định mở rộng đội ngũ theo thời gian.
Cảm ơn ông đã dành thời gian chia sẻ!
KttBĐTHnT