Ngành ô tô Việt Nam đang đối mặt với nhiều
thách thức, đòi hỏi các giải pháp nhằm tăng cường nội địa hóa và nâng cao tính
cạnh tranh.
Hàm lượng công nghệ trung bình và thấp
Theo thống kê của Bộ Công Thương, ngành
công nghiệp ô tô đang nhập khẩu 80% linh kiện sản xuất. Số liệu của Cục Công
nghiệp - Bộ Công Thương cho thấy, cả nước hiện có 377 doanh nghiệp ô tô, trong
đó có 169 doanh nghiệp FDI, chiếm tỷ lệ 46,43%. Số lượng nhà sản xuất, cung ứng
trong nước cho ngành công nghiệp ô tô còn khá khiêm tốn. Tổng số sản phẩm trong
ngành là 1.221, trong đó đa số là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, hàm lượng công
nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị của một chiếc ô tô.
Cục Công nghiệp cũng chỉ ra, hiện các
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô tại Việt Nam còn khá ít, mới chỉ khoảng
300 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong đó, có khoảng hơn 40 doanh
nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô; 45 doanh nghiệp sản xuất khung gầm, thân xe,
thùng xe; 214 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô...
Trên thực tế, các doanh nghiệp tại Việt
Nam cũng mới sản xuất, gia công chưa được 300 chi tiết trong khi cả chiếc xe có
khoảng 30.000 chi tiết linh kiện. Bên cạnh đó, hàm lượng công nghệ và giá trị
các chi tiết linh kiện, phụ tùng này cũng chưa cao khi mới chỉ là những linh kiện
cồng kềnh, cần nhiều nhân công như ghế, bộ dây điện, vành bánh xe, ốp cửa, lốp
không săm... và một số doanh nghiệp đầu tư dây chuyền dập thân, vỏ xe. Những
chi tiết quan trọng về động cơ, hệ truyền động, hộp số, hệ thống an toàn, hệ thống
điện tử trên xe, đặc biệt là chip bán dẫn, doanh nghiệp nội địa chưa sản xuất
được và phải phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu.
Về tỷ lệ nội địa hóa, Bộ Công Thương cũng
cho biết, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp. Mục
tiêu đề ra là 30 - 40% vào năm 2020, 40 - 45% vào năm 2025 và 50 - 55% vào năm
2030. Nhưng con số thực tế hiện nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%. Cụ thể,
theo thông tin được cung cấp từ doanh nghiệp, hiện có Thaco đạt khoảng 15-18%,
Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova. Con số này thấp hơn rất
nhiều so với mục tiêu đề ra và so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan,
Indonesia và Malaysia.
Về phụ tùng, linh kiện, hiện Việt Nam
chủ yếu sản xuất các phụ tùng với công nghệ giản đơn, như ghế ngồi,
kính, săm lốp, bánh xe… Những linh kiện quan trọng, có hàm lượng công nghệ
và giá trị gia tăng cao như hệ thống phanh, ly hợp, hộp số, hệ thống lái... vẫn
phải nhập khẩu hoàn toàn.
Mở cánh cửa nội địa hóa cho ngành công
nghiệp ô tô
Tóm lại, ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô Việt
Nam đang gặp phải nhiều trở ngại, từ quy mô thị trường nhỏ cho đến tỷ lệ nội địa
hóa thấp. Với tình hình này, các doanh nghiệp trong nước cần có chiến lược phát
triển chuỗi cung ứng và công nghệ tiên tiến hơn để tăng khả năng cạnh tranh và
giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Trước tình hình này, Dự thảo chiến lược
phát triển ngành ô tô Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 của Bộ Công Thương
đã đặt ra nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Cụ thể, Dự thảo nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc ứng dụng công nghệ tiên tiến nhằm sản xuất các linh kiện quan trọng như động
cơ, hộp số, bộ truyền động và thân vỏ xe. Hợp tác với các hãng ô tô lớn sẽ giúp
Việt Nam sản xuất các loại phụ tùng có tiềm năng tham gia vào chuỗi cung ứng
toàn cầu, đồng thời tăng cường xuất khẩu.
Ngoài ra, việc thu hút đầu tư vào các lĩnh
vực cơ bản như tạo phôi, gia công chính xác và xử lý bề mặt là giải pháp cần
thiết để hỗ trợ ngành. Hợp tác với các ngành công nghiệp vật liệu đầu vào cũng
được nhấn mạnh để đảm bảo nguồn lực bền vững.
Khuyến khích sản xuất các dòng xe thân thiện với môi trường như xe điện và xe hybrid, đáp ứng tiêu chuẩn khí thải theo lộ trình, cũng là một trong những ưu tiên nhằm giúp ngành công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hỗ trợ các địa
phương và doanh nghiệp để tăng tỷ lệ nội địa hóa trong thời gian tới.
Trao đổi với PV, ông Phạm Tuấn Anh, Phó Cục
trưởng Cục Công nghiệp cho biết, thứ nhất cần tạo dựng thị trường cho công nghiệp
hỗ trợ ngành ô tô, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước;
tập trung phát triển một số dòng xe chiến lược để tạo thị trường cho công nghiệp
hỗ trợ ngành ô tô. Bảo vệ thị trường cho công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô bằng các
hàng rào kỹ thuật, thuế quan phù hợp cam kết quốc tế và thực trạng ngành công
nghiệp ô tô Việt Nam.
Thứ hai, khuyến khích các doanh nghiệp sản
xuất, lắp ráp gia tăng tỷ lệ giá trị nội địa: Điều chỉnh chính sách về thuế,
phí, lệ phí, tài chính theo hướng ưu đãi, hỗ trợ cho tỷ lệ giá trị nội địa đối
với ô tô sản xuất trong nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp gia tăng nội địa
hóa.
Thứ ba, nâng cao năng lực doanh nghiệp
công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô; thực hiện hiệu quả các chính sách ưu đãi và hỗ
trợ của Chính phủ đối với công nghiệp hỗ trợ nói chung và công nghiệp hỗ trợ
ngành ô tô nói riêng, đặc biệt là việc thực hiện Chương trình phát triển công
nghiệp hỗ trợ hàng năm.
Tại Quyết định số 589/QĐ-TTg phê duyệt Kế
hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp giai đoạn 2018 - 2020 xét đến 2025, nêu rõ:
Khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư phát triển ngành công nghiệp ô tô,
không phân biệt doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Chính phủ tiếp tục củng
cố thể chế, chính sách tốt hơn, có lợi cho sản xuất, cho người dân và không
trái với thông lệ, cam kết hội nhập quốc tế.
Với dự báo nhu cầu ô tô của nước ta, năm
2025 theo phương án trung bình khoảng 800 - 900 nghìn xe và năm 2030 khoảng 1,5
- 1,8 triệu xe, nếu không phát triển ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước,
toàn bộ thị trường xe con là xe nhập khẩu; xe khách và xe tải nhập khẩu 50%,
50% sản xuất trong nước với tỷ lệ nội địa hóa 50%, thì kim ngạch nhập khẩu năm
2025 dự kiến khoảng 12 tỷ USD và năm 2030 là 21 tỷ USD.
Như vậy, nếu không sớm có giải pháp, chính
sách hỗ trợ ngành sản xuất, lắp ráp ô tô và công nghiệp cơ khí và công nghiệp hỗ
trợ ô tô trong nước phát triển thì nước ta sẽ trở thành thị trường tiêu thụ ô
tô cho các hãng FDI tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp ô tô cũng cần
những chính sách đủ mạnh để giải quyết các vấn đề như chi phí đầu tư lớn trong
khi sản lượng nhỏ và chưa có công nghiệp vật liệu chất lượng cao… để nhanh
chóng thu hẹp khoảng cách chi phí, mở rộng được mạng lưới linh kiện nội địa,
thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ trong tương lai.
* Dự
thảo chiến lược phát triển ngành ô tô Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045,
trong đó đặt mục tiêu đến năm 2035, tổng sản lượng xe đạt khoảng 1.531.400 chiếc,
trong đó xe đến 9 chỗ khoảng 852.600 chiếc, từ 10 chỗ trở lên khoảng 84.400 chiếc,
xe tải khoảng 587.900 chiếc, xe chuyên dụng khoảng 6.500 chiếc. Tỷ lệ số xe sản
xuất lắp ráp trong nước chiếm khoảng 78% so với nhu cầu nội địa. Đến năm 2035,
tổng lượng xe xuất khẩu đạt khoảng 90.000 chiếc…
Theo Duy Anh - BCT