Kể từ sau khi đại dịch Covid19 bắt
đầu lắng dịu, vấn đề Năng lượng đang dần trở thành tâm điểm của nền kinh tế
toàn cầu, khi đây được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự gia
tăng lạm phát của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay. Giải quyết bài toán
năng lượng chưa bao giờ là một điều dễ dàng đối với các ngành sản xuất công
nghiệp.
Mới đây, chuyên gia của Tạp chí
Năng lượng Việt Nam đã có bài viết phân tích về chủ đề hiện đang được cả thế giới
dõi theo mỗi ngày, bài viết đánh giá về những công nghệ mới nổi, có khả năng
làm thay đổi cách thức sản xuất và sử dụng năng lượng trong tương lai nhằm ngăn
chặn những thảm họa khí hậu thông qua mục tiêu giảm phát thải ròng đến năm 2050.
Dự án FlyZero ra đời máy bay hydro
Khí thải carbon là một mối quan
tâm lớn khi nói đến các chuyến bay thương mại, nhưng có một giải pháp tiềm năng
rất khả thi, đó là ứng viên nhiên liệu sạch hydro. Dự án được biết đến với tên
gọi FlyZero do Viện Công nghệ Hàng không Vũ trụ Anh (ATI) kết hợp với Chính phủ
Anh nghiên cứu thực hiện.
Dự án FlyZero đặt ra một tầm nhìn
mang tính cách mạng cho tương lai ngành hàng không - nơi một thế hệ máy bay mới
chạy bằng hydro lỏng giúp các doanh nghiệp, nền văn hóa, gia đình và quốc gia
được kết nối mà không có khí thải carbon. Dự án được tài trợ bởi Bộ Kinh doanh,
Năng lượng và Chiến lược Công nghiệp Anh (DBEIS). FlyZero bắt đầu được “khởi
nghiệp” năm 2021 như một dự án nghiên cứu chuyên sâu về máy bay thương mại
không phát thải carbon. Nghiên cứu độc lập đã tập hợp các chuyên gia từ khắp
Vương quốc Anh để đánh giá những thách thức về thiết kế, nhu cầu sản xuất, vận
hành và cơ hội thị trường của máy bay không phát thải carbon tiềm năng.
FlyZero đã xác định 6 ‘viên gạch
công nghệ’ quan trọng đòi hỏi sự phát triển nhanh chóng để mở khóa chuyến bay
hydro lỏng cùng với các công nghệ cho phép, đánh giá tính bền vững, các yêu cầu
về vận hành và cơ sở hạ tầng, cũng như phân tích kinh tế. Cụ thể, dự án sẽ cho
ra đời một chiếc máy bay cỡ trung bình chạy hoàn toàn bằng hydro lỏng. Có khả
năng chở 279 hành khách bay nửa vòng trái đất không dừng. Nếu công nghệ thành
công, nó sẽ trở thành chuyến bay không carbon phi điểm dừng giữa London và Tây
Mỹ, hoặc London đến New Zealand. Đây cũng là dự án tham vọng của ATI nhằm hướng
tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 trong bối cảnh an ninh năng lượng được quan
tâm hơn bao giờ hết.
Theo ATI, máy bay sẽ vận hành bằng
hydro lỏng được trữ ở độ âm -250 độ C. Ở mức nhiệt độ này khí hydro sẽ đông đặc
với tỷ trọng cao, đảm bảo đủ năng lượng cung cấp cho chuyến bay nửa vòng quanh
trái đất (khoảng 20.000 km). Thông tin về dự án còn khá khiêm tốn, nhưng theo
tiết lộ ban đầu, máy bay có kích thước tương tự máy bay tầm trung với sải cánh
rộng 54 m, thân hình tròn trịa y chang Airbus. Máy bay này sẽ được trang bị hai
động cơ tua bin phản lực, khí hydro thay cho xăng. Riêng thùng chứa hydro động
lạnh sẽ nằm ở phần sau của máy bay, ngoài ra sẽ có thêm 2 thùng phụ nhỏ phía
trước, gắn kín dưới bụng máy bay.
Cũng theo ATI, rào cản lớn nhất của
FlyZero chính là việc lưu trữ hydro bởi hydro là khí dễ bốc, dễ cháy nổ như thảm
họa từng diễn ra với khinh khí cầu Hindenburg năm 1937. Bởi vậy, việc lưu trữ cần
được toán cực kỳ tỉ mỉ và thận trọng. Chưa hết, hiện tại, việc sản xuất khí
hydro rất đắt so với nhiên liệu hóa thạch, nên chuỗi cung ứng nhiên liệu còn hạn
chế. Tuy nhiên, theo dự báo, tình hình sẽ khác khi công nghệ phát triển và mối
quan tâm của con người ngày càng cao, chưa kể an ninh năng lượng ngày thêm cấp
thiết. Dự kiến vào giữa thập niên thứ 3 của thế kỷ này, nhiên liệu hydro lỏng sẽ
trở lên thông dụng, rẻ hơn và an toàn hơn nên việc đi trước đón đường của
FlyZero sẽ hợp lý và khả thi hơn.
Thu giữ CO2 trực tiếp
Thông qua quá trình quang hợp, cây
xanh được xem là “nhà máy tự nhiên” tốt nhất trong việc giảm thiểu CO2 trong
khí quyển. Hiểu được quá trình này, tương lai con người sẽ cho ra đời công nghệ
mới có khả năng “quang hợp” tương tự như cây cối, lưu giữ carbon dioxide (CO2) ở
mức cao hơn mà không tốn kém đất đai, hạ tầng. Đó là công nghệ Direct Air
Capture (thu khí trực tiếp), gọi ngắn là DAC. Nó liên quan đến việc thu carbon
dioxide từ không khí và lưu trữ trong các hang động địa chất sâu dưới lòng đất,
hoặc sử dụng kết hợp với hydro để sản xuất nhiên liệu tổng hợp.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế
(IEA), hiện có 19 nhà máy thu khí trực tiếp (DAC) đang hoạt động trên quy mô
toàn cầu, thu được hơn 0,01 Mt (triệu tấn) CO2/năm và một nhà máy thu 1 triệu tấn
CO2/ năm đang được phát triển ở Mỹ. Nhà máy mới nhất đi vào hoạt động (tháng
9/2021), đang thu gom 4 ngàn tấn CO2/năm để lưu trữ trong các bazan tại
Iceland. Trong Kịch bản phát thải ròng vào năm 2050, DAC được mở rộng quy mô để
thu được hơn 85 MtCO2/năm vào năm 2030 và ~ 980 MtCO2/năm vào năm 2050. Mức độ
triển khai này sẽ cần thêm một số cuộc trình diễn quy mô lớn để cải tiến công
nghệ và giảm chi phí thu giữ.
Với DAC, CO2 được chiết suất trực
tiếp từ khí quyển và được lưu giữ vĩnh viễn trong các thành bazan địa chất sâu
nên loại bỏ được carbon, hoặc có thể được sử dụng. Ví dụ như trong chế biến thực
phẩm, hoặc kết hợp với hydro để sản xuất nhiên liệu tổng hợp.
Ngày nay, hai phương pháp tiếp cận
công nghệ đang được sử dụng để thu CO2 từ không khí: DAC lỏng và rắn. Hệ thống
lỏng đưa không khí đi qua các dung dịch hóa học (ví dụ: dung dịch hydroxit), loại
bỏ CO2. Hệ thống tái hòa nhập các hóa chất trở lại quá trình bằng cách áp dụng
nhiệt ở nhiệt độ cao trong khi trả lại phần còn lại của không khí cho môi trường.
Công nghệ DAC rắn sử dụng các bộ lọc hấp thụ rắn liên kết hóa học với CO2. Khi
các bộ lọc được làm nóng và đặt trong chân không, chúng sẽ giải phóng CO2 đậm đặc,
sau đó được giữ lại để lưu trữ, hoặc sử dụng.
Hầu hết các dự án quy mô lớn sử dụng
CO2 thu được vẫn dẫn đến việc tái phát vào bầu khí quyển (chẳng hạn như khi đốt
cháy nhiên liệu tổng hợp). Điều này sẽ không tạo ra khí thải tiêu cực, nhưng vẫn
có thể tạo ra các lợi ích về khí hậu, nhất là khi nhiên liệu tổng hợp thay thế
nhiên liệu hóa thạch thông thường. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi sang
phát thải ròng, CO2 được sử dụng để sản xuất nhiên liệu tổng hợp cần được thu hồi
để tránh phát thải chậm từ CO2 khi nhiên liệu được đốt cháy.
Thu giữ CO2 trực tiếp dự kiến sẽ
là chìa khóa trong quá trình chuyển đổi sang một hệ thống năng lượng bằng
không, trong đó lượng CO2 thải vào khí quyển tương đương với lượng được loại bỏ.
Do một số lĩnh vực như hàng không và công nghiệp nặng khó khử cacbon nên các
công nghệ loại bỏ cacbon có thể bù đắp lượng khí thải và hỗ trợ quá trình chuyển
đổi nhanh hơn.
Lưu trình
công nghệ DAC
Lợi ích của DAC được đánh giá như
là tiết kiệm đất và nước, loại bỏ nhu cầu vận chuyển CO2 đường dài. Năng lượng
được sử dụng để thu giữ CO2 sẽ quyết định mức độ tiêu cực của hệ thống và cũng
có thể là một yếu tố quyết định đáng kể đến chi phí cho mỗi tấn CO2 được thu giữ.
Ví dụ, cả công nghệ thu giữ chất rắn và chất lỏng đều có thể được cung cấp năng
lượng từ các nguồn năng lượng tái tạo, trong khi nhiệt thải cấp thấp được thu hồi
có thể cung cấp năng lượng cho hệ thống DAC rắn.
Do công nghệ này vẫn chưa được trình
diễn ở quy mô lớn nên giá thành của DAC trong tương lai là không chắc chắn. Ước
tính chi phí khai thác rất khác nhau, từ 100 USD/tấn đến 1.000 USD/tấn. Vào năm
2018, hãng Carbon Engineering của Canada đã công bố nghiên cứu dài kỳ cho thấy
chi phí khai thác từ 94 USD/tấn đến 232 USD/tấn có thể đạt được tùy thuộc vào
các giả định tài chính, chi phí năng lượng và cấu hình nhà máy cụ thể.
Một nhà máy có quy mô này sẽ đủ điều
kiện để được hưởng tín dụng thuế 45Q (cung cấp 35 USD cho mỗi tấn CO2 được sử dụng
để thu hồi dầu tăng cường và 50 USD cho mỗi tấn CO2 được lưu trữ). Hơn nữa, nó
cũng có thể đủ điều kiện để nhận được tín chỉ Tiêu chuẩn Nhiên liệu Carbon của
California, nếu CO2 được sử dụng để sản xuất nhiên liệu vận tải carbon thấp.
Các khoản tín dụng này được giao dịch ở mức xấp xỉ 200 USD/tCO2 vào năm 2020. Ở
quy mô nhỏ hơn, một số công ty DAC hiện đang cung cấp các dịch vụ bù trừ thương
mại cho các cá nhân, cũng như các công ty sẵn sàng trả tiền đăng ký định kỳ để
loại bỏ CO2 khỏi bầu khí quyển và thay mặt họ lưu trữ dưới lòng đất, giá dao động
từ 600 USD đến 1000 USD/tCO2.
Trong thời gian tới, việc trình diễn
quy mô lớn các công nghệ DAC cần sự hỗ trợ có mục tiêu của chính phủ, bao gồm
việc thông qua các khoản tài trợ, tín dụng thuế và mua sắm công để loại bỏ CO2.
Việc triển khai công nghệ cũng có thể được hưởng lợi từ các sáng kiến của khu
vực doanh nghiệp và cam kết giảm thiểu carbon thông qua thị trường tự nguyện.
Các cơ hội triển khai dài hạn sẽ được liên kết chặt chẽ với các cơ chế định giá
CO2, khuôn khổ tính toán mạnh mẽ để nhận biết và định giá lượng khí thải tiêu cực
liên quan đến việc lưu trữ CO2 thu được từ khí quyển. Qua các dự án đang hoạt động
cho thấy, các mô hình hiện có đòi hỏi một lượng năng lượng rất lớn như đề cập ở
trên. Nếu được cải thiện trong tương lai, DAC có thể chứng minh là một trong những
công nghệ tốt nhất cho môi trường và cho mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm
2050 như đề cập trong Hội nghị biến đổi khí hậu Paris 2015 và COP26./.
Theo TCNL