Áp lực "kép" với doanh nghiệp ngành nhôm
Nhôm được
xác định là một trong những ngành công nghiệp nền tảng và có tốc độ phát triển
nhanh trong khoảng 10 năm trở lại đây. Tại Diễn đàn doanh nghiệp ngành nhôm Việt
Nam - 2025 diễn ra mới đây, ông Vũ Văn Phụ - Phó Chủ tịch Hiệp hội Nhôm thanh định
hình Việt Nam thông tin, tổng sản lượng của ngành nhôm năm 2024 đạt 1,5 triệu tấn,
tương đương 4,2 tỷ USD, trong đó nhôm thanh định hình chiếm 43,3% sản lượng, đạt
650.000 tấn, nhôm tái chế đạt trên 250.000 tấn, chiếm 16,7%, còn là sản phẩm
khác. Tổng sản lượng của ngành năm 2024 tăng trưởng tới 14,5% so với năm 2023.
Tương
đương với mức tăng về sản lượng sản xuất, lượng nhập khẩu nguyên liệu cũng tăng
dần từ trên 1,12 triệu tấn năm 2022 lên trên 1,23 triệu tấn năm 2024.
Về thị trường
tiêu thụ, khoảng 60% nhôm ép đùn được sử dụng trong ngành xây dựng. Phân khúc
này khá tiềm năng, bởi theo dự báo của Bộ Xây dựng, nhu cầu nhôm xây dựng có thể
tăng 25% trong 5 năm tới do chính sách tháo gỡ vướng mắc cho các dự án đầu tư bất
động sản.
Các diễn giả trao đổi tại Diễn đàn doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam -
2025. Ảnh: Hải Linh
Trong lĩnh
vực công nghiệp, ngành nhôm cũng cung cấp linh kiện và máy móc cho những doanh
nghiệp sản xuất điện tử và linh kiện lớn như Samsung, Apple, Panasonic, LG…Đồng
thời, cung cấp linh kiện cho sản xuất ô tô, tàu hoả bởi đặc tính nhẹ và độ bền
cao.
Về xuất khẩu,
ngành nhôm Việt Nam hiện đang xuất khẩu phần lớn sang Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật
Bản và Hàn Quốc. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất khi chiếm 25% giá trị
xuất khẩu của cả ngành.
“Nhìn vào
kết quả đạt được có thể thấy, ngành nhôm Việt Nam đã có bước tiến dài trong 25
năm qua. Số lượng nhà máy, quy mô và tổng sản lượng tăng gấp 2 lần. Đặc biệt,
các nhà máy được đầu tư cải tiến, chiếm lĩnh được thị trường trong nước, khẳng
định uy tín thương hiệu với đối tác, người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu”,
ông Vũ Văn Phụ nhấn mạnh.
Tuy nhiên,
lãnh đạo Hiệp hội Nhôm thanh định hình Việt Nam cũng bày tỏ, bối cảnh thị trường
đang rất thử thách với doanh nghiệp ngành nhôm. Đầu tiên là những tác động bởi
biến động địa chính trị, sự thay đổi về chính sách thương mại của các nước lớn
trên thế giới.
Nga và
Trung Quốc là hai thị trường cung ứng nhôm lớn nhất thế giới nhưng xung đột
thương mại giữa các nước khiến dòng chảy nhôm nguyên liệu bị tắc nghẽn, rất khó
về thị trường Việt Nam.
Cùng đó, thị trường xuất khẩu ngưng trệ khi các nước nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Úc liên tục dựng lên các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các quy định về môi trường. Tất cả những yếu tố này khiến doanh nghiệp Việt gặp khó khăn khi mở rộng thị trường xuất khẩu.
Bên cạnh
đó, nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại luôn luôn hiển hiện. Đơn cử, Mỹ đã
khởi xướng nhiều cuộc điều tra phòng vệ thương mại liên quan đến nhôm Việt Nam
và khu vực châu Á là một ví dụ điển hình.
Tại thị
trường trong nước, doanh nghiệp ngành nhôm lại đối mặt với thách thức khác như
hiện tượng dư thừa công suất nhiều năm chưa được cải thiện. Nguyên do, thị trường
bất động sản và xây dựng tạm thời ngưng trệ. Nhu cầu nhôm xây dựng giảm sút,
các nhà máy ép đùn phải điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản
xuất liên tục tăng, giá bán nhôm định hình trên thị trường không đủ bù đắp chi
phí đầu vào, lợi nhuận của các nhà sản xuất giảm mạnh trong 2-3 năm vừa qua.
“Doanh
nghiệp ngành nhôm đang đứng trước quá nhiều vấn đề cần giải quyết để có thể duy
trì chỗ đứng và tiếp tục phát triển thị trường. Trong đó, bài toán về chi phí đầu
vào tăng, thiếu nguồn lực đầu tư cho công nghệ hiện đại vào sản xuất, áp lực
chuyển đổi xanh, ESG, thiếu nhân lực kỹ thuật cao và thiếu môi trường cạnh
tranh lành mạnh là những nút thắt cần tháo gỡ”, ông Vũ Văn Phụ tóm tắt.
Nhìn vào bức
tranh khá toàn diện của ngành nhôm đã được phác hoạ có thể thấy, việc phụ thuộc
vào 100% nguyên liệu nhôm sơ cấp nhập khẩu là vấn đề lớn của ngành. Đây không
chỉ đơn thuần là bài toán chi phí mà còn là vấn đề truy xuất nguồn gốc, tỷ lệ nội
địa hoá, thậm chí là cả độ ổn định của chuỗi sản xuất. Yếu tố này còn liên quan
đến khả năng bị áp các biện pháp phòng vệ thương mại.
Chia sẻ tại
Diễn đàn, ông Chu Thắng Trung - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công
Thương cũng phân tích, phòng vệ thương mại có mối liên quan chặt chẽ tới thuế
nhập khẩu, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu. “Nhập khẩu tới 100% nguyên liệu sơ
cấp, doanh nghiệp ngành nhôm cần có sự chuẩn bị để chứng minh truy xuất nguồn gốc
bất cứ lúc nào. Về dài hạn có thể đa dạng hoá thị trường nhập khẩu để tránh rủi
ro bị áp thuế cao hơn”, ông Chu Thắng Trung khuyến nghị.
Hơn nữa,
chính sách phòng vệ thương mại đang được nhiều quốc gia áp dụng, chứ không chỉ
có Hoa Kỳ, khi xuất khẩu doanh nghiệp ngành nhôm cần đặc biệt lưu ý.
Đâu là giải
pháp trọng tâm?
Với những
thách thức đang chờ đợi, để giảm áp lực cho doanh nghiệp ngành nhôm, ông Vũ Văn
Phụ đề nghị, Chính phủ cùng các bộ, ngành hỗ trợ mở rộng thị trường cho ngành.
Ngành nhôm đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua. Ảnh minh
hoạ
Cụ thể,
doanh nghiệp mong muốn được hỗ trợ nâng cao nhận thức doanh nghiệp về tuân thủ
chính sách thuế, sở hữu trí tuệ, hải quan; giảm thuế VAT để thúc đẩy tiêu dùng
nội địa.
Kiến nghị giảm thuế xuất khẩu nhôm sau ép đùn 7604 từ 5% về 0%. Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm, giao thương để mở rộng thị trường; cảnh báo rủi ro bị điều tra lẩn tránh thuế đối với ngành nhôm trước xu hướng chuyển dịch dòng sản xuất từ các nước vào Việt Nam.
Bàn về cơ
hội cũng như giải pháp giúp doanh nghiệp ngành nhôm phát triển mạnh mẽ hơn
trong những năm tới, tại Diễn đàn, các diễn giả, chuyên gia đều đồng nhất quan
điểm sẽ luôn có thách thức và cơ hội. Bản thân doanh nghiệp cần chủ động nghiên
cứu tận dụng tốt các chính sách hỗ trợ hiện hành của Chính phủ.
Ông Phan Đức
Hiếu - Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội,
thông tin, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng nhằm tạo
đột phá cho phát triển kinh tế đất nước, trong đó có những quyết sách có thể tạo
tác động tốt với ngành nhôm.
Đơn cử, Quốc
hội có nghị quyết đặc thù về phát triển nhà ở xã hội nhằm đạt mục tiêu đến năm
2030 xây dựng ít nhất 1 triệu căn nhà ở xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp
và công nhân khu công nghiệp. Hay nghị quyết đặc thù về phát triển kinh tế - xã
hội ở một số địa phương; xây dựng đặc khu thương mại tự do thế hệ mới tại Hải
Phòng; phát triển dự án hạ tầng đường sắt, đường thuỷ, đường bộ…Tất cả những
chính sách này đều mở ra những cơ hội rất tốt cho ngành nhôm. Tuy nhiên, doanh
nghiệp cần mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm để trở
thành “lựa chọn tối ưu”.
“Về đề nghị
giảm thuế xuất khẩu 5%, doanh nghiệp ngành nhôm cần phân tích đầy đủ tính hợp
lý, tính cần thiết và đề xuất lên Chính phủ, Quốc hội để được xem xét, giải quyết”,
ông Phan Đức Hiếu cho biết thêm.
Về kiến
nghị hỗ trợ đa dạng hoá thị trường cho ngành nhôm, ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục
Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương cho rằng, Việt Nam hiện có nhiều hiệp định
thương mại tự do đang thực thi với nhiều mã thuế đã về 0%, do đó có rất nhiều
cơ hội cho doanh nghiệp ngành nhôm đa dạng hoá thị trường.
Tuy nhiên,
điều kiện tiên quyết để đa dạng hoá thị trường thành công là sản phẩm phải tốt,
đáp ứng các tiêu chuẩn xanh và phải có thương hiệu. Do vậy, doanh nghiệp trong
nước cần “nâng cấp” bản thân trước khi bước ra thị trường thế giới với sức cạnh
tranh rất khốc liệt.
“Theo tập
quán thương mại thế giới thì tham gia hội chợ thương mại quốc tế là gần như bắt
buộc để tìm hiểu xu hướng thị trường, tìm kiếm đối tác, nhận chuyển giao công
nghệ. Hy vọng trong thời gian tới, Cục Xúc tiến thương mại và Hiệp hội Nhôm
thanh định hình Việt Nam sẽ làm việc, nghiên cứu để xây dựng kế hoạch hỗ trợ
doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm hiệu quả nhất”, ông Vũ Bá Phú cho hay.
* Nhôm là một trong số ngành chịu tác động trực tiếp từ
Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon, cùng các quy định liên quan đến sản xuất
xanh, phát triển bền vững. Đây là những quy định rất khó, buộc doanh nghiệp phải
đầu tư nghiêm túc mới có thể đáp ứng và xuất khẩu bền vững.
Theo Hải Linh - BCT