Tham dự diễn đàn có Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; bà Carolyn Turk, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới; ông Thomas Jacobs, Giám đốc Quốc gia cấp cao Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) đồng chủ trì Diễn đàn; cùng nhiều đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế, các Hiệp hội Doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết: Năm 2022 là một năm kinh tế thế giới đầy biến động phức tạp, khó lường và nhiều thách thức đan xen song Việt Nam đã đạt được những kết quả tăng trưởng kinh tế - xã hội quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực.


Năm 2022, quy mô nền kinh tế Việt Nam lần đầu tiên vượt mốc 400 tỷ USD với mức tăng trưởng là 8,02%, GDP bình quân/người hơn 4.000 USD. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 3,22 triệu tỷ đồng, tăng 11,5%; trong đó, vốn FDI giải ngân đạt gần 22,4 tỷ USD, là mức cao nhất trong 5 năm qua. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, đưa Việt Nam vào trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; tiếp tục duy trì xuất siêu năm thứ 7 liên tiếp với kim ngạch đạt 11,2 tỉ USD.

Môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện, phát triển doanh nghiệp có nhiều khởi sắc, đã có hơn 208.300 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, tăng hơn 30% so với cùng kỳ. Khu vực du lịch, dịch vụ phát triển sôi động trở lại, nhất là từ sau khi kiểm soát được dịch bệnh, tăng 19,8%. Nhiều dự án hạ tầng quan trọng, nhất là giao thông, năng lượng được đẩy nhanh tiến độ. Cùng với các tín hiệu khả quan nêu trên, vị trí của Việt Nam trên hàng loạt các bảng xếp hạng đã có những bước tiến đáng kể, nhiều tổ chức quốc tế nhận định Việt Nam là "điểm sáng trong bức tranh xám màu" của kinh tế toàn cầu.

Đạt được kết quả tích cực nêu trên là nhờ vào đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành, quyết liệt, linh hoạt và kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị cùng với sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế và đặc biệt là sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Phục hồi và phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững hiện đang là ưu tiên hàng đầu và là mục tiêu mà mọi quốc gia đang hướng tới. Mục tiêu chung là nhằm đạt được sự thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Với Việt Nam, tăng trưởng xanh không chỉ là lựa chọn tất yếu mà còn là cơ hội để trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực, bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.

Nhận thức được tầm quan trọng của tăng trưởng xanh, Việt Nam đã sớm tiếp cận với mô hình phát triển xanh và bền vững. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành: (1) Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; (2) Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; (3) Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn. Các nhiệm vụ xuyên suốt là phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức để tham gia sâu hơn vào cấu trúc đầu tư, trật tự thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu.

Đây được coi là chìa khóa đảm bảo cho việc thực hiện thành công các mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030; đồng thời, tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục đà đổi mới, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, đề cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững.

Trong quá trình đó, cộng đồng doanh nghiệp được xác định là nhân tố trọng tâm, đóng vai trò quan trọng. Những năm gần đây, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về vai trò của mình trong chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia đã được nâng lên rõ rệt, từng bước thay đổi hành vi và có nhiều hành động thiết thực đóng góp vào thực hiện tăng trưởng xanh. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã và đang lấy kinh doanh "xanh" là chiến lược và lợi thế cạnh tranh; từ sử dụng năng lượng sạch, nguyên vật liệu thân thiện môi trường, ủng hộ các hoạt động trách nhiệm xã hội, đến đầu tư nghiêm túc vào những dây chuyền sản xuất hiện đại, công nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng ít tài nguyên, năng lượng, giảm thiểu chất thải và khí thải…

Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, nhiều thách thức khó khăn nhưng cũng mở ra không ít cơ hội. Với tầm nhìn xa, hoài bão lớn, quyết tâm cao, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được điều đó, chúng ta cần đồng tâm, hiệp lực, chung sức đồng lòng, kiên định triển khai hiệu quả Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh nhằm thực hiện các cam kết quốc tế mạnh mẽ, tiếp tục khẳng định vai trò là thành viên tích cực và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.

Trong bối cảnh đó, Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam với chủ đề "Cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh" hết sức có ý nghĩa. Hội nghị sẽ là cơ hội để cộng đồng doanh nghiệp tham mưu cho Chính phủ các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xanh, bền vững; có cam kết, lộ trình cụ thể, nâng cao trách nhiệm cộng đồng của doanh nghiệp bên cạnh việc thực hiện đầu tư kinh doanh có hiệu quả; có trách nhiệm đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Dưới đây là tổng hợp 1 số ý kiến đóng góp của hội nghị nhằm đưa ra các giải pháp khuyến khích, thúc đẩy Cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thúc đẩy tăng trưởng xanh trong thời gian sắp tới:

Ông Thomas Jacobs, Giám đốc Quốc gia Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC):

Thứ nhất, Việt Nam sẽ cần có thêm 6,8% GDP đầu tư hằng năm, tức là 368 tỷ USD cho tới năm 2040 (theo số liệu Báo cáo Quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam của Ngân hàng Thế giới dự) và một nửa phần này khoảng 184 tỷ USD cần có từ khu vực tư nhân và để huy động được thì chúng ta phải vượt qua một số rào cản cơ bản như môi trường thể chế, pháp luật để khu vực tư nhân đầu tư vào những ngành chính gây phát thải như năng lượng, giao thông, nông nghiệp và sản xuất nhanh hơn, đơn giản hơn, rẻ hơn.

Thứ hai, cần có hợp đồng mua điện theo đúng chuẩn quốc tế để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài trong ngành rất quan trọng này.

Thứ ba, cần có thị trường vốn để có được các mô hình huy động trái phiếu bền vững và các cấu trúc này để Việt Nam đạt được những nguồn tài chính cần thiết trong lộ trình biến đổi khí hậu của mình.

Cuối cùng, cần có sự tham gia của khu vực tư nhân hơn nữa, thêm cơ hội cho họ trong thị trường carbon. Đây là thị trường mang tính tự nguyện nhưng sau này, bắt buộc chúng ta bảo đảm được môi trường đó phát triển mạnh mẽ và có được nền kinh tế xanh hơn trong việc giúp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như tiếp cận hàng hóa tốt hơn. Điều này cần sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa khu vực tư nhân trong nước, nhà đầu tư nước ngoài để chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ mới cho nền kinh tế xanh Việt Nam.

 

Ông Thomas Jacobs tin tưởng chắc chắn trong những năm tới vớ sự hợp tác từ phía doanh nghiệp và Chính phủ, Việt Nam sẽ đạt được sự tăng trưởng xanh bền vững mạnh mẽ. Ông cũng nhấn mạnh rằng Tổ chức Tài chính Quốc tế IFC cùng với Ngân hàng Thế giới rất vinh dự làm đối tác với Chính phủ và doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân: “Tôi hy vọng Việt Nam đạt được tham vọng của mình trở thành quốc gia có thu nhập cao và đi đầu trong kinh tế xanh.” Ông nói.

Ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch VCCI, Đồng Chủ tịch Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam:

Nhận định Kết quả đạt được năm 2022 của kinh tế Việt Nam là rất ấn tượng, nhưng các tháng cuối năm 2022, đầu năm 2023 đã cho thấy những dấu hiệu đáng quan ngại, đòi hòi cộng đồng doanh nghiệp doanh nghiệp và chính phủ phải đồng hành và hành động quyết liệt hơn nữa. Đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã suy giảm rõ rệt, đồng thời trong 2 tháng đầu năm 2023 có tới 51.400 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong khi chỉ có 37.900 doanh nghiệp thành lập mới hoặc quay lại thị trường, tức đội ngũ DN tại VN đã sụt giảm trên 13.000 DN chỉ trong 2 tháng.

Bên cạnh đó, Việt Nam đang đặt ra những mục tiêu phát triển rất cao, đó là đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển thu nhập cao, đến năm 2050 giảm phát thải ròng carbon bằng 0. Rõ ràng, để Việt Nam vượt qua các khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển, cả Chính phủ và cộng đồng DN phải đồng hành, phải cùng chia sẻ tầm nhìn và chiến lược phát triển nhanh, xanh, bền vững.


Để đến giữa thế kỷ này trở thành quốc gia phát triển, văn minh, hiện đại, Việt Nam phải thực hiện mục tiêu kép là phát triển nhanh và xanh, với mức tăng trưởng GDP duy trì ở mức 6-7%/năm, đồng thời phải đưa công nghệ xanh vào phổ cập trong hoạt động kinh tế. Chính mục tiêu và yêu cầu phát triển này tạo ra cơ hội và không gian phát triển mới cho cộng đồng doanh nghiệp, gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, cho các nhà đầu tư quốc tế. Tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị COP26, và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là cam kết và đóng góp của Việt Nam trong giải quyết những thách thức toàn cầu về biến đổi khí hậu và vấn đề môi trường. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn ủng hộ, hưởng ứng và đồng hành cùng chính phủ thực hiện các mục tiêu và cam kết phát triển quan trọng này.

Chủ đề Diễn đàn VBF năm nay là "Cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thúc đẩy tăng trưởng xanh" có ý nghĩa hết sức to lớn. Cùng với các nội dung đề xuất thảo luận tại Phiên kỹ thuật ngày 17/3, Diễn đàn cấp cao ngày hôm nay là dịp để cộng đồng doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam đề xuất với Chính phủ các giải pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế xanh. Đồng thời, cũng thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp đối với mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

Ông Soren Roed Pedersen, Đồng Chủ tịch VBF

Sau khi đưa ra báo cáo tóm tắt về phiên họp kỹ thuật, chuyên sâu ngày 18/02 của 11 Nhóm công tác, gồm: Nông nghiệp, Cơ sở hạ tầng, Điện và Năng lượng, Khai khoáng, Kinh tế số, Đầu tư và Thương mại, Thuế và Hải quan, Nguồn nhân lực, Giáo dục và Đào tạo, Du lịch, Môi trường, đã đưa ra 3 nhóm vấn đề chính còn tồn tại liên quan chủ yếu về vấn đề pháp lý và thủ tục hành chính đồng thời đưa ra các gợi ý giải pháp khắc phụ các hạn chế:

Một là, còn một số tồn tại, hạn chế trong khâu thực thi chính sách pháp luật và việc triển khai chính sách pháp luật của một số nơi còn quá cứng nhắc và thiếu thống nhất ở cấp làm việc tại cả Trung ương và địa phương khiến các doanh nghiệp nước ngoài gặp khó khăn.

Hai là, một số luật và quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, đặc biệt là đối với một số nội dung mới như kinh tế số, môi trường, những lĩnh vực này cần khuôn khổ pháp lý linh hoạt hơn để các doanh nghiệp nước ngoài có thể phát triển mạnh mẽ

Ba là, một số sáng kiến, giải pháp mới trong việc thực hiện các công việc, thủ tục hành chính được đề xuất và cần được xem xét sớm trong bối cảnh doanh nghiệp trong nước và nước ngoài phải đối mặt với nhiều thách thức mới do COVID-19

Đối với nhóm vấn đề thứ nhất, Nhóm công tác Đầu tư và Thương mại ghi nhận sự cải thiện lớn trong việc cấp phép qua mạng Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tuy nhiên cũng nêu vấn đề "giấy phép con" cản trở kinh doanh, bao gồm điều kiện "kiểm tra nhu cầu kinh tế" trong lĩnh vực bán lẻ, "giấy phép thương mại" và các giấy phép con khác về kỹ thuật, môi trường v.v... Mỗi giấy phép đều có một lý do riêng nhưng chúng tôi tin rằng mỗi giấy phép có một sự thay thế hiệu quả hơn mà doanh nghiệp sẽ không bị chậm trễ hàng tháng để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Trong lĩnh vực du lịch, ngoài hỗ trợ tài chính đã được đề xuất cho các khách sạn và cơ sở dịch vụ ăn uống bị ảnh hưởng nặng nề, việc hiện đại hóa những yêu cầu về bằng cấp nhằm có thể huy động nhân lực từ nước ngoài vào để khởi động lại ngành cũng quan trọng không kém việc thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia ngành này. Vấn đề này cần sự hỗ trợ ở cấp địa phương đối với giấy phép lao động và những yêu cầu khác.

Đối với nhóm vấn đề thứ hai, Luật Môi trường và số lượng lớn các nghị định, thông tư đi kèm cần nỗ lực rất lớn để thực thi. Việc này đòi hỏi cấp Trung ương có hướng dẫn chỉ đạo địa phương làm đúng kèm theo sự minh bạch và trao đổi thông tin tốt với các doanh nghiệp.

Trong lĩnh vực hải quan, cơ chế một cửa quốc gia (NSW) đầy hứa hẹn mang tới một cơ hội tuyệt vời cho Chính phủ bảo đảm quy định chặt chẽ giữa chính quyền Trung ương và địa phương và giữa các Bộ khi nó cung cấp tất cả các thông tin liên quan tại một cửa, bảo đảm tất cả các bên tiếp cận cùng một thông tin và thủ tục, giảm đi những xung đột về quy định giữa nhiều bộ. Tuy nhiên, để cơ chế này thực sự hiệu quả, các bộ cần nhất quán cập nhật thường xuyên sự thay đổi các quy định. Một Nghị định mới yêu cầu các bộ liên quan cập nhật thường xuyên các quy định có thể nâng cao hiệu quả của Cơ chế một cửa quốc gia theo đúng mục đích của nó.

Nhóm vấn đề thứ ba không chỉ liên quan đến sự phục hồi từ dịch bệnh COVID-19 mà còn liên quan đến sự phục hồi tổng thể của nền kinh tế. Một ví dụ quan trọng là quy định pháp luật và dự thảo các biện pháp về thương mại điện tử, sử dụng Internet, địa phương hóa dữ liệu v.v… vẫn còn khoảng cách đáng kể trong cách tiếp cận liên quan đến quy định và thuế.

Một đề xuất khác từ Nhóm công tác Du lịch là khi thực hiện hoãn, giảm thuế được đưa ra trong hai năm qua theo cách không xử phạt những doanh nghiệp không cố ý, ví dụ như việc tỉ lệ thuế giá trị giá tăng cho các sản phẩm trên một hóa đơn có sự khác biệt (như rượu là 10% và đồ ăn là 8%).

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI: kiến nghị 6 nội dung để hiện thực hóa các định hướng phát triển và triển khai hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp mà Chính phủ đã đặt ra hướng tới kinh tế xanh và phát triển bền vững gồm:

(1) Tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật về môi trường.

(2) Tạo thuận lợi trong tiếp cận thông tin về chính sách, pháp luật về môi trường, phát triển bền vững.

(3) Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về tăng trưởng xanh, khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ sạch.

(4) Theo dõi, đánh giá thực thi chính sách về bảo vệ môi trường, phát triển xanh, phát triển bền vững ở cấp địa phương.

(5) Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn cho tăng trưởng xanh cho doanh nghiệp: Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới, Việt Nam dự kiến cần khoảng 30 tỷ USD để thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh đến năm 2030, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ có thể đáp ứng tối đa 30% nguồn lực. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong tăng trưởng xanh nguồn đầu tư tư nhân mới đóng vai trò quyết định. Do đó, các cơ quan nhà nước cần xây dựng cơ chế để thúc đẩy các chương trình tín dụng xanh từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính xanh như tín chỉ các-bon, trái phiếu xanh, thị trường mua bán các-bon…

 (6) Tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với trọng tâm là cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp.

Ông Gabor Fluit, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham):

Ông Gabor Fluit khẳng định sứ mệnh của EuroCham là thúc đẩy thương mại và đầu tư song phương giữa châu Âu và Việt Nam. Trong các khuyến nghị của mình về chính sách nhằm mở đường hướng tới sự thịnh vượng xanh và chuyển đổi kinh tế của Việt Nam, cũng như tận dụng đầy đủ các lợi ích của EVFTA và đẩy nhanh việc phê chuẩn EVIPA của tất cả các quốc gia thành viên EU ông chia sẻ như sau:

Vấn đề đầu tiên và cũng quan trọng nhất cần thảo luận hôm nay là tăng trưởng xanh. Ngày nay, chúng ta đang trên đỉnh của một cuộc cách mạng xanh và Việt Nam có tiềm năng mở đường tới một tương lai bền vững và thịnh vượng. Ý tưởng này đã khiến EuroCham tổ chức Diễn đàn và Triển lãm Kinh tế Xanh vào cuối năm 2022. Sắp tới, chúng tôi hy vọng sẽ tổ chức sự kiện này một lần nữa vào năm 2024, và có sự hỗ trợ toàn diện từ các cơ quan chức năng của Việt Nam.

Chuẩn bị cho tương lai, việc sử dụng năng lượng tái tạo là nhiệm vụ cấp bách và có ảnh hưởng lớn của chúng ta. Để làm được điều này, Chính phủ nên khuyến khích tất cả các bên tiêu dùng điện đầu tư vào năng lượng tái tạo. Để giảm lượng khí thải carbon và thúc đẩy một tỉ lệ sử dụng năng lượng sạch hơn, điều cần thiết là hoàn thiện Quy hoạch điện VIII và đưa vào một chiến lược bù đắp cho năng lượng từ than.

Với nguồn năng lượng mặt trời và gió dồi dào của Việt Nam, điều quan trọng là phải chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi hoàn toàn sang các nguồn năng lượng tái tạo này và việc sử dụng khí tự nhiên làm nhiên liệu chuyển đổi sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này. Các vấn đề về rác thải và thiếu nước cũng có thể được giải quyết với mô hình kinh tế tuần hoàn.

Mặc dù có tiến bộ trong việc triển khai luật về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, chúng tôi khuyến nghị Việt Nam nên tăng cường thực thi các quy định về chất thải và thúc đẩy việc dùng nhựa phân hủy cho đến khi nhựa được loại bỏ về cơ bản.

Để hỗ trợ mục tiêu trở thành quốc gia đi đầu trong lĩnh vực khoa học đời sống của Việt Nam, EuroCham nhấn mạnh đến việc tăng cường khả năng tiếp cận dược phẩm và thiết bị y tế thông qua các quy trình quản lý được tối ưu hóa và các thông lệ tốt nhất toàn cầu. Điều này đòi hỏi các chính sách mua sắm và tài trợ dựa trên giá trị phải được sửa đổi bởi Luật Dược. Mặc dù Nghị định 07 và Nghị quyết 30 đã loại bỏ các rào cản và cải thiện việc thanh toán bảo hiểm y tế, nhưng việc Bộ Y tế nhanh chóng phê duyệt cấp phép lưu hành cho các thiết bị y tế loại C và D là rất quan trọng để tiếp tục giảm tình trạng thiếu hụt trang thiết bị và vật tư y tế.

Trong thị trường toàn cầu ngày nay, Việt Nam cũng cần thu hút và giữ chân người tài. Để làm đươc điều đó, các thủ tục giấy phép lao động hiện tại cần được đơn giản hóa. Cần lưu ý rằng đầu tư nước ngoài chất lượng cao là điều cần thiết cho sự thành công của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta không thể thu hút những nhà đầu tư này nếu chúng ta không thể tuyển dụng và giữ chân những người giỏi. Sẽ không hợp lý chút nào khi những người nước ngoài đã sống, làm việc và đầu tư tại Việt Nam trong nhiều năm, đã từng được cấp nhiều giấy phép lao động lại bị từ chối gia hạn giấy phép lao động chỉ vì một số vấn đề nhỏ về thủ tục.

Để khai thác hoàn toàn tiềm năng của lực lượng lao động đa dạng và tài năng của chúng ta, cần đơn giản hóa các rào cản về thủ tục hành chính và mở đường dẫn đến thành công. Điều này có thể đạt được thông qua sửa đổi Bộ luật Lao động và Nghị định 152. Điều này cho phép Việt Nam sử dụng tối đa lực lượng lao động đa dạng, tài năng, thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao

Tiếp theo, cảnh quan, thiên nhiên tươi đẹp cùng di sản văn hóa giàu có khiến Việt Nam trở thành một điểm đến hàng đầu cho khách du lịch. Để khai thác tối đa tiềm năng này, việc miễn thị thực một tháng nên được mở rộng cho tất cả các nước EU và các nước có nhiều khách du lịch khác. Hơn nữa, việc thực hiện một chương trình riêng cấp thị thực cho những người về hưu tự túc trong 3 đến 6 tháng có thể là chất xúc tác cho ngành du lịch phát triển mạnh, giống như sự thành công của các quốc gia láng giềng cạnh chúng ta.

Tiếp theo, điều quan trọng đối với Chính phủ là tiếp tục ưu tiên chuyển đổi số toàn diện. Để làm được điều này, điều quan trọng là phải tạo ra sự tương thích thực tế cho các doanh nghiệp châu Âu đang hoạt động tại Việt Nam để tuân thủ cả Luật An ninh mạng của Việt Nam và Quy định Bảo vệ dữ liệu chung của Châu Âu (GDPR). Điều này đòi hỏi có sự hài hòa giữa luật bảo vệ dữ liệu cá nhân của Việt Nam với luật pháp quốc tế để tạo điều kiện trao đổi dữ liệu giữa các công ty Việt Nam và các công ty đa quốc gia. Chúng tôi cũng khuyến nghị rằng chữ ký sống và nhận dạng cá nhân nên được thay thế bằng chứng nhận chữ ký điện tử được quốc tế công nhận.

Ngoài ra, việc áp dụng các chính sách ưu tiên đám mây đổi mới phải đi kèm với các biện pháp bảo mật, tuân thủ và xác nhận được quốc tế công nhận.

Về thuế, để khắc phục tác động của thuế suất tối thiểu toàn cầu (GMT) sắp tới, chúng tôi đề xuất các biện pháp khuyến khích đầu tư mà có thể bao gồm miễn thuế nhập khẩu, kéo dài thời gian miễn thuế đất và ưu đãi dựa trên chi phí, đặc biệt là chi phí nghiên cứu và phát triển.

Về thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), chúng ta phải bảo đảm rằng việc xóa bỏ thuế nhập khẩu theo EVFTA không bị mất tác dụng do thuế TTĐB lại tăng để bù lại, vì nó sẽ làm suy giảm mục đích thúc đẩy thương mại song phương của hiệp định thương mại tự do.

EuroCham tự hào sát cánh cùng các đối tác Việt Nam, đoàn kết trong sứ mệnh xây dựng một tương lai tươi sáng hơn. Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng bằng cách hợp tác với nhau, chúng ta có thể tạo ra một tương lai tươi sáng cho mọi người dân Việt Nam. Người xưa có câu "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao". Bằng cách cùng hợp tác và kết hợp các nỗ lực của mình, chúng ta có thể đạt được những điều tuyệt vời và xây dựng một tương lai bền vững cho các thế hệ mai sau. Chúng ta hãy tiếp tục làm việc cùng nhau và tạo dựng mối quan hệ đối tác bền vững với thời gian vì lợi ích của Việt Nam và người dân Việt Nam.”

Ông Greg Testerman, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham):

Tại hội nghị, Ông Greg Testerman đã trình bày các khuyến nghị về cơ chế mua bán điện để giảm được carbon cũng như có được tăng trưởng bền vững cũng như việc thu vốn và đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Ngoài ra AmCham bày tỏ mong muốn có những khung pháp lý đầy đủ cho nền kinh tế số, ví dụ như sự tiếp cận đối với dịch vụ toàn cầu. Bảo vệ dữ liệu rất quan trọng để bảo đảm được tính cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam cần ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng số, điện toán đám mây và trung tâm dữ liệu. Một số thủ tục hiện nay còn vướng mắc về thiết bị kỹ thuật số vẫn là rào cản và chúng tôi rất muốn có được sự đơn giản hóa thủ tục nhập khẩu cũng như những chứng chỉ cần thiết từ những quốc gia đáng tin cậy.

“Các thành viên của chúng tôi, đặc biệt trong lĩnh vực dược, gặp phải sự trì hoãn trong việc có được những thủ tục để cấp phép lưu hành thuốc. AmCham hoan nghênh hành động gần đây của Quốc hội thông qua Nghị quyết 80 cho phép tự động gia hạn giấy đăng ký lưu hành đối với các loại thuốc và vaccine hết hạn vào đầu năm nay. Điều này đã giúp giảm thiểu sự gián đoạn trong việc cung cấp các loại thuốc và thiết bị y tế quan trọng. Vào tháng 2 vừa qua, chúng tôi rất vui mừng khi Bộ Y tế công bố và ban hành Quyết định 62/QĐ-QLD gia hạn giấy đăng ký lưu hành cho nhiều loại thuốc đến hết năm 2024. Chúng tôi khuyến nghị cần thực hiện giải pháp bền vững hơn để giải quyết những thách thức đang diễn ra này, bao gồm sửa đổi Luật Dược, dỡ bỏ các hạn chế về lưu kho và vận chuyển đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, từng bước mở cửa phân phối thuốc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tăng khả năng tiếp cận nguồn cung ứng thuốc, loại bỏ các yêu cầu đặc thù của quốc gia để hài hòa quy trình của Việt Nam với các tiêu chuẩn khu vực và toàn cầu. Các chính sách phù hợp cũng như cam kết của Chính phủ trong việc thực hiện các chính sách đó đóng vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của ngành dược phẩm.

Các yêu cầu cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Nhiều tổ chức nước ngoài đang có kế hoạch thành lập đại diện thương mại tại Việt Nam chưa có người bảo lãnh để xin cấp thị thực vào Việt Nam cho lao động nước ngoài của mình. Chúng tôi đề xuất đơn giản hóa các thủ tục hành chính về cấp giấy phép lao động.

Hoa Kỳ và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận về hiệp định thuế trước những thay đổi về Luật Thuế của Hoa Kỳ vào năm 2019. Cả hai quốc gia đang trong quá trình tiến tới ký kết một thỏa thuận sửa đổi một phần nhỏ và chúng tôi hy vọng sẽ kết thúc đàm phán trong năm nay. Điều này rất quan trọng đối với công dân và các công ty Hoa Kỳ đang làm việc tại Việt Nam.

Về thuế đối với đồ uống có đường, thuế đối với nhà thầu nước ngoài hoạt động trên nền tảng kỹ thuật số, chúng tôi đánh giá cao những đối thoại từ phía Chính phủ.

Chúng tôi coi trọng quan hệ đối tác và đối thoại với Chính phủ và đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong cải cách hành chính nhằm cải thiện môi trường pháp lý trong nước. Mặc dù chúng tôi ghi nhận việc loại bỏ và đơn giản hóa một số thủ tục hành chính đang được thực hiện, các luật và quy định gần đây vẫn tiếp tục đưa ra các thủ tục hành chính mới như cấp phép, phê duyệt và các yêu cầu báo cáo cồng kềnh. Chúng tôi khuyến nghị xem xét cẩn trọng và tránh mọi gánh nặng hành chính bổ sung nào có thể trong các dự thảo luật và quy định.

Với tư cách là những nhà đầu tư lớn ở thị trường Việt Nam, các doanh nghiệp Hoa Kỳ luôn kỳ vọng Việt Nam sẽ tiếp tục thành công. Các vấn đề nêu ra trong báo cáo này nêu rõ niềm tin của chúng tôi rằng có thể hỗ trợ môi trường kinh doanh tốt nhất bằng các hành động giúp tăng năng suất và giảm chi phí cũng như rủi ro khi kinh doanh tại Việt Nam. Quan trọng hơn, việc giảm chi phí và sự phức tạp trong kinh doanh sẽ mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp do Việt Nam làm chủ, phần đông là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh, từ đó sẽ bảo đảm khả năng cạnh tranh và tăng trưởng trong tương lai của Việt Nam.

AmCham cam kết đạt được tăng trưởng bền vững phù hợp với các giá trị Môi trường, Xã hội và Quản trị. Chúng tôi sẽ tiếp tục đóng vai trò xây dựng, không chỉ để khiếu nại mà để xác định và thực hiện các giải pháp, đồng thời tích cực ủng hộ cho một môi trường kinh doanh tốt hơn và khu vực tư nhân phát triển mạnh hơn ở Việt Nam.

Tóm lược theo BCP