Theo một báo cáo mới công bố, nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ phục hồi 6,5% trong năm nay từ 2,6% năm 2021 và tiếp tục mở rộng thêm 6,7% vào năm 2023, nhờ tỷ lệ tiêm chủng cao, mở rộng thương mại và các chính sách tài khóa và tiền tệ tiếp tục được điều chỉnh từ Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).

"Đợt bùng phát Covid-19 mới đã cản trở sự phục hồi kinh tế của Việt Nam, thắt chặt thị trường lao động và làm gián đoạn chuỗi sản xuất và cung ứng vào năm 2021", Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam Andrew Jeffries cho biết tại buổi ra mắt.

“Tuy nhiên, tỷ lệ tiêm chủng cao đã cho phép chính phủ từ bỏ các biện pháp khắc nghiệt. Sự thay đổi kịp thời này của chiến lược ngăn chặn đại dịch đã giúp khôi phục hoạt động kinh tế và giảm các thách thức trong môi trường kinh doanh,” ông nói.

Đưa ra cái nhìn chi tiết hơn về triển vọng của đất nước, Chuyên gia Kinh tế Quốc gia Chính của ADB tại Việt Nam, Nguyễn Minh Cường kỳ vọng sự phục hồi của thị trường lao động, cùng với các biện pháp kích thích tài chính và tiền tệ từ Chương trình Phục hồi và Phát triển Kinh tế của Chính phủ, sẽ thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp; với dự kiến 9,5% vào năm 2022. Sản lượng nông nghiệp dự kiến sẽ tăng 3,5% trong năm nay, do nhu cầu trong nước hồi phục và giá hàng hóa toàn cầu tăng.

Ngoài ra, việc mở cửa trở lại đối với du lịch quốc tế vào giữa tháng 3 và nới lỏng các biện pháp kiểm soát đại dịch dự kiến sẽ thúc đẩy dịch vụ, với lĩnh vực này dự báo sẽ tăng trưởng 5,5% trong năm nay, ông nói.

Việc giải ngân vốn công được đẩy nhanh sẽ thúc đẩy hoạt động xây dựng và các hoạt động kinh tế liên quan. Song song với sự phục hồi kinh tế và sự bấp bênh của giá dầu toàn cầu, lạm phát dự kiến sẽ tăng lên 3,8% vào năm 2022 và 4,0% vào năm 2023.

Trong khi đó, “sự phối hợp được cải thiện giữa chính quyền trung ương và địa phương, cũng như dịch chuyển lao động được khôi phục sẽ tiếp tục xây dựng niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước”, ông nói .


Phòng Thương mại Châu Âu trong Chỉ số Khí hậu Kinh doanh của Việt Nam trong quý 4 năm ngoái cho thấy các doanh nghiệp Châu Âu có cái nhìn lạc quan về môi trường kinh doanh của đất nước sau khi chính phủ nới lỏng các biện pháp ngăn chặn Covid-19 khắc nghiệt.

Ông nói, giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hai tháng đầu năm 2022 tăng 7,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2022, được kỳ vọng sẽ thúc đẩy phục hồi thương mại khi đại dịch Covid-19 lắng xuống, hình thành thị trường xuất khẩu ổn định và đáng tin cậy cho Việt Nam, ông Cường gợi ý.

Tuy nhiên, ông Cường cũng nhấn mạnh những rủi ro giảm giá ngắn hạn có thể cản trở sự phục hồi của Việt Nam.

“Tình trạng nhiễm Covid-19 vẫn còn cao kể từ giữa tháng 3, nếu không được giảm bớt, có thể cản trở sự trở lại bình thường của nền kinh tế trong năm nay,” ông Cường nói.

Sự phục hồi toàn cầu chậm lại và giá dầu toàn cầu tăng vọt do xung đột vũ trang ở Ukraine sẽ ảnh hưởng đến ngoại thương và lạm phát của Việt Nam. Phục hồi cũng phụ thuộc vào việc chính phủ triển khai nhanh chóng và hiệu quả các chương trình phục hồi và phát triển kinh tế.

Tăng cường đẩy mạnh chương trình kích cầu

Chính phủ đã khởi động hai chương trình hỗ trợ tài chính và tiền tệ, từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 7 năm 2021, để giải quyết tác động kinh tế của đại dịch Covid-19. Để đối phó với sự hồi sinh của Covid-19 vào năm 2021, Quốc hội, vào tháng 1 năm 2022, cho thông qua một nghị quyết về các biện pháp tài chính và tiền tệ mới nhằm đẩy nhanh việc thực hiện ERDP (Chương trình Phục hồi và Phát triển Kinh tế) trong năm nay và năm tới.

Ông Cường nói: “Việc triển khai hiệu quả chương trình sẽ rất quan trọng để Việt Nam vực dậy đà tăng trưởng, nhưng việc triển khai chương trình kịp thời phải đối mặt với một số thách thức về chính sách”.

Phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những hợp phần quan trọng nhất của chương trình đã được phân bổ ngân sách 113 nghìn tỷ đồng (5 tỷ USD) cho năm 2022 và 2023.

Việc triển khai chương trình cơ sở hạ tầng không kịp thời có thể gặp rủi ro như ông Cường đã chỉ ra một vấn đề mang tính hệ thống trong quá trình chuẩn bị, phê duyệt và giải ngân dự án do các thủ tục đầu tư công phức tạp và cứng nhắc.

Ông nói, điều này đặc biệt đối với việc thu hồi đất, tái định cư và mua sắm, đòi hỏi phải đơn giản hóa và thay đổi triệt để các quy định về đầu tư công và phối hợp chính sách.

Hỗ trợ lãi suất với tổng trị giá 40 nghìn tỷ đồng (1,7 tỷ USD), một phần trong kế hoạch tài chính của chương trình, dự kiến sẽ thúc đẩy tổng cầu.

Thế nhưng, vì mức độ tín nhiệm và khả năng thu hồi là những điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp có thể khai thác các khoản vay này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể không đáp ứng được các tiêu chí do bảng cân đối kế toán và năng lực của họ đã bị suy yếu do đại dịch Covid-19.


Một lo ngại khác là chương trình hỗ trợ lãi suất có thể dễ bị ảnh hưởng bởi các khoản vay được hỗ trợ bị lạm dụng vào các mục đích khác, bao gồm đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro, chẳng hạn như cổ phiếu hoặc bất động sản, ông Cường nói.

Để ngăn chặn điều này tái diễn, các hướng dẫn rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan sẽ rất quan trọng để tăng cường giám sát việc thực hiện chương trình.

Bên cạnh đó, một thành phần tài khóa quan trọng của chương trình kích cầu là giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các sản phẩm và dịch vụ vào năm 2022, từ 10% xuống 8%.

Tổng giá trị của khoản cắt giảm thuế là khoảng 49 nghìn tỷ đồng (2,1 tỷ USD). Việc giảm thuế VAT có thể tạo ra các tác động chuyển tiếp đáng kể và trên diện rộng nếu được thực hiện thành công. Tuy nhiên, các tiêu chí và thủ tục đủ điều kiện rất phức tạp và có thể hạn chế lợi ích của các doanh nghiệp từ việc giảm thuế VAT.

“Cần có các tiêu chí và thủ tục rõ ràng hơn về tính đủ điều kiện để hỗ trợ quá trình giảm thuế VAT được thực hiện nhanh chóng”, ông Cường đề xuất.

HN Times