Trong nhiều năm qua, Đức vẫn duy trì là một trong những đối tác xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Năm 2021, nước này là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 tại EU, thứ 7 trên thế giới của Việt Nam Với việc Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đi vào thực thi chiều sâu (nhiều cam kết thuế quan đến lộ trình cắt giảm), xuất khẩu của Việt Nam sang Đức được kỳ vọng sẽ gia tăng mạnh mẽ hơn nữa. Vì vậy, các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng tận dụng cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu sang Đức.

Nhiều dư địa xuất khẩu

Đức hiện là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và lớn thứ tư trên thế giới, do đó đây là một thị trường có sức mua đặc biệt lớn. Trong khi đó, Việt Nam và Đức có cơ cấu sản phẩm tương đối bổ sung cho nhau, nước này có nhu cầu nhập khẩu cao đối với nhiều sản phẩm là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, người tiêu dùng Đức ngày càng cởi mở và yêu thích sử dụng các sản phẩm châu Á trong đó có sản phẩm Việt Nam.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, 5 tháng năm 2022, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang nước này đạt 3,604 tỷ USD. Trong đó, hàng dệt, may đạt 409,394 triệu USD; giày dép các loại đạt 518,671 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 613,453 triệu USD. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu từ Đức đạt 1,502 tỷ USD.

Thực hiện EVFTA, EU/ Đức đã xóa bỏ 85,6% số dòng thuế cho hàng hóa của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực (ngày 01/08/2020). Đến năm 2028, tỷ lệ này sẽ lên tới 99,2% (0,8% số dòng thuế còn lại sẽ được áp dụng hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch là 0%). Dự báo những sản phẩm của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường Đức trong thời gian tới là giày dép, quần áo, thủy sản, các sản phẩm từ nhựa, trái cây, các loại hạt và một số sản phẩm nông sản khác như gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm… do hiện tại EU (trong đó có Đức) đang duy trì các mức thuế quan nhập khẩu tương đối cao đối với những sản phẩm nói trên và EVFTA sẽ giúp hàng hóa Việt Nam cắt giảm các mức thuế này.

Theo các chuyên gia, EVFTA càng ý nghĩa hơn đối với xuất khẩu Việt Nam khi tại khu vực châu Á, EU chỉ mới thiết lập mối quan hệ FTA với 12 quốc gia, trong đó ở khu vực Đông Nam Á chỉ có Việt Nam và Singapore đã có FTA với EU. Như vậy, trong ngắn hạn, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang EU nói chung và sang Đức nói riêng sẽ có lợi thế cạnh tranh đáng kể so với nhiều đối thủ khác nhờ EVFTA.


Ngoài ra, trong EVFTA, Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ thuế quan cho rất nhiều hàng hóa nguyên liệu và máy móc phục vụ sản xuất trong nước nhập khẩu từ các quốc gia thành viên EU, trong đó có Đức. Đây cũng là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu sử dụng nhiều nguyên liệu, máy móc ngoại nhập để có thể mua các đầu vào này từ Đức với giá cả tốt hơn (hiện tại Việt Nam vẫn đang duy trì mức thuế quan MFN tương đối cao với nhiều loại sản phẩm này).

Trong khi đó, Đức được biết tới là nguồn cung công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại hàng đầu thế giới. Do đó, khi EVFTA có hiệu lực, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất chất lượng tốt nhất với giá thấp hơn nhiều so với trước kia.

Không chỉ có cơ hội từ cắt giảm thuế quan, cơ hội cắt giảm chi phí sản xuất, mà trong EVFTA còn có cơ hội khác từ việc tiết giảm các rào cản phi thuế quan. Chẳng hạn như các cam kết về các biện pháp phi thuế quan của EU (trong đó có Đức) cho hàng hóa Việt Nam như minh bạch hóa và thuận lợi hóa các thủ tục thông quan và giải phóng hàng, về miễn thủ tục thanh tra SPS đối với các cơ sở sản xuất đã đủ tiêu chuẩn của Việt Nam, về việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc công nhận tương đương các biện pháp SPS của Việt Nam, về khuyến khích công nhận kết quả đánh giá sự phù hợp về TBT của Việt Nam… sẽ giúp cho hàng hóa của Việt Nam tiếp cận thị trường Đức dễ dàng hơn.

Thách thức, khó khăn và những điều doanh nghiệp cần lưu ý khi thâm nhập vào thị trường Đức

Bên cạnh những cơ hội, Hiệp định EVFTA cũng đặt ra không ít thách thức cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Đức. Bởi để hưởng ưu đãi thuế quan, các sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được quy tắc xuất xứ của Hiệp định. Điều này sẽ khó khăn đối với một số ngành sản xuất mà nguyên liệu phụ thuộc chủ yếu vào Trung Quốc và một số nước láng giềng của Việt Nam.

Trên thực tế, EU nói chung và Đức nói riêng được coi là một trong những thị trường nhập khẩu khó tính nhất thế giới. EU/Đức là có tần suất sử dụng các biện pháp phi thuế quan (NTM) đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc hàng cao nhất trên thế giới với tỷ lệ phần trăm các sản phẩm nhập khẩu bị áp dụng ít nhất một biện pháp NTM lên tới 93,88% (theo số liệu của WITS - Giải pháp thương mại tích hợp thế giới). Các nhóm hàng hóa có tần suất áp dụng NTM nhiều nhất khi nhập khẩu vào EU là dệt may, động vật, rau quả, đồ da, hóa chất, thực phẩm, giày dép, sản phẩm nhựa... Đây cũng là các sản phẩm mà Việt Nam xuất khẩu nhiều sang Đức. Ngoài ra, EU cũng là khu vực sử dụng thường xuyên các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ).

Để tận dụng cơ hội từ EVFTA tăng cường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Đức, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cần tìm hiểu cam kết thuế quan mà EU dành cho Việt Nam tại Tiểu phụ lục 2-A-1 thuộc Chương 2 - Đối xử quốc gia và Mở cửa thị trường đối với hàng hóa của Hiệp định. Đặc biệt, để biết chính xác mức thuế quan ưu đãi mà EU (bao gồm Đức) áp dụng đối với từng mặt hàng của Việt Nam thì doanh nghiệp cần kiểm tra thuế quan ưu đãi theo EVFTA mà EU áp dụng cho Việt Nam hàng năm.

Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu chi tiết, cập nhật thường xuyên và đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định và thủ tục nhập khẩu của EU và Đức; nghiên cứu kỹ thị trường Đức (đặc biệt là thị trường ngách), tìm hiểu chi tiết về thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của người dân nước này từ đó nghiên cứu cải thiện chất lượng, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với thị trường, thị hiếu người tiêu dùng nước này. Tìm hiểu các cơ chế, cách thức tiếp cận các kênh/nhà phân phối hàng hóa tại Đức, đặc biệt là các kênh thương mại điện tử đang ngày càng trở nên phổ biến và trở thành xu hướng mua sắm chủ đạo của người tiêu dùng Đức.

Đặc biệt, với một thị trường khó tính như thị trường Đức, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.

Theo VNEXP