Chia sẻ về một số vấn đề thời sự của ngành
gỗ Việt, TS Tô Xuân Phúc, chuyên gia của Tổ chức Forest Trends cho biết: Tổng
lượng viên nén Việt Nam xuất khẩu trong 6 tháng năm 2024 đạt 2,6 triệu tấn, với
giá trị 345,5 triệu USD, chiếm 4,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ; tăng
25,9% về lượng và 4,6% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến nay, Việt Nam có trên 300 nhà
máy, cơ sở sản xuất viên nén gỗ. Ảnh: L.S
Hai thị trường xuất khẩu viên nén lớn nhất
của Việt Nam là Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong 6 tháng năm 2024, lượng và giá trị
xuất khẩu viên nén sang hai quốc gia này chiếm 92% về lượng và 89,9% về giá trị
xuất khẩu viên nén của Việt Nam.
Ngoài ra, EU là thị trường xuất khẩu viên
nén đứng thứ ba của Việt Nam, còn lại sản phẩm này được xuất khẩu sang một số
thị trường khác như Đài Loan (Trung Quốc), PNP… Giá viên nén xuất khẩu trung
bình hàng tháng trong 6 tháng năm 2024 sụt giảm mạnh ở cả hai thị trường Hàn Quốc
và Nhật Bản.
Cụ thể, tại Nhật Bản, nếu như 6 tháng năm
2023 giá xuất khẩu viên nén đạt trung bình 170 USD/tấn, có những tháng ở mức
185 USD/tấn, thì trong 6 tháng năm 2024 giá trung bình xuất mặt hàng này chỉ
còn 146 USD/tấn, giảm 24 USD/tấn.
Tương tự, tại thị trường Hàn Quốc, giá xuất
khẩu trung bình của 6 tháng năm 2023 là 139 USD/tấn, trong khi 6 tháng đầu năm
2024 chỉ còn 104 USD/tấn, giảm 35 USD/tấn.
Để giảm phụ thuộc vào 2 thị trường Hàn Quốc
và Nhật Bản, theo các chuyên gia, các doanh nghiệp sản xuất viên nén cần tìm hiểu,
thúc đẩy tiêu thụ tại các thị trường mới như thị trường châu Âu (EU) và thị trường
nội địa.
Theo TS Tô Xuân Phúc, trong thời gian tới,
thị trường Nhật Bản tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất viên nén
của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam còn có cơ hội thay thế nguồn cung viên
nén của Indonesia cho thị trường Nhật Bản, bởi nguồn cung viên nén làm từ vỏ dầu
cọ có nguồn gốc từ Indonesia có thể sẽ không đạt được chứng chỉ bền vững theo
yêu cầu của thị trường Nhật Bản.
Mở rộng vùng nguyên liệu và những thị trường
tiềm năng
“Hiện, nhu cầu viên nén và dăm gỗ tiêu thụ
nội địa có khả năng gia tăng trong tương lai do cam kết giảm phát thải của
Chính phủ Việt Nam, cũng như do các doanh nghiệp tự giác chuyển đổi từ nguồn
nguyên liệu phát thải cao sang viên nén, đặc biệt nếu Chính phủ ban hành các
chính sách khuyến khích việc chuyển đổi”, TS Tô Xuân Phúc nhận định.
Theo các chuyên gia, việc nghiên cứu công
nghệ để mở rộng nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất viên nén là vấn đề
cần thiết. Ảnh: L.S
Ông Olaf Naehrig, kỹ sư trưởng Tập đoàn
KAHL tại Việt Nam, cho rằng thị trường EU hiện đang chiếm tỷ trọng nhỏ trong số
các thị trường nhập khẩu viên nén của Việt Nam, chỉ chiếm 3,3% trong tổng lượng
viên nén xuất khẩu và chiếm 3,8% trong tổng kim ngạch. Trong năm 2023, thị trường
EU nhập khẩu hơn 155.000 tấn viên nén của Việt Nam, đạt xấp xỉ 26 triệu USD,
tăng gần gấp 3 lần về lượng và 3,7 lần về giá trị so với năm 2022, đây là tín
hiệu vui của viên nén Việt Nam đối với thị trường EU.
Ông Olaf Naehrig cũng đồng tình với quan điểm cho rằng, ngành viên nén Việt Nam cần thúc đẩy mở cửa thị trường tại châu Âu. Bởi vì đây mới là khu vực tiêu thụ nhiều viên nén nhất trên thế giới.
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, Việt
Nam đang có 83 doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu viên nén và trên 300
cơ sở sản xuất viên nén. So với nhu cầu xuất khẩu, Việt Nam có lực lượng doanh
nghiệp sản xuất viên nén khá yếu, quy mô xuất khẩu chỉ tập trung ở một số công
ty lớn.
Tuy nhiên, ngành sản xuất viên nén tại Việt
Nam đang bị ngành xuất khẩu dăm gỗ cạnh tranh dữ dội về nguyên liệu. Do đó,
nghiên cứu công nghệ để mở rộng nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất
viên nén là vấn đề cần thiết.
Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn
Sơn Hà, đại diện Tập đoàn KAHL tại Việt Nam, cho rằng nguyên liệu chế biến viên
nén tại Việt Nam chưa được bền vững về nguồn gốc và chất lượng.
"Nguyên liệu sản xuất viên nén không
chỉ có cây keo, mà cỏ voi, thân cây ngô hoặc bã mía cũng có thể sử dụng, tất cả
những phụ phẩm nông nghiệp có thể đốt cháy đều là nguyên liệu sản xuất viên
nén", ông Nguyễn Sơn Hà cho biết.
Theo ông Hà, lợi thế của ngành sản xuất
viên nén Việt Nam là có nhiều doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ, phế phụ phẩm từ chế
biến đồ gỗ nếu bỏ đi thì rất phí, đó là nguyên liệu tốt nhất để sản xuất viên
nén. Tận dụng mạt cưa, gỗ vụn để sản xuất viên nén còn giúp giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, các doanh nghiệp không phải đốt tiêu hủy. Viên nén sản xuất tại Việt
Nam được thị trường Nhật Bản ưa chuộng là bởi khi đốt lên không có khói, đồng
nghĩa không phát thải CO2.
Chia sẻ về nguồn nguyên liệu mới để sản xuất
viên nén bền vững, đại diện Tập đoàn KAHL tại Việt Nam cho biết: KAHL là đơn vị
đầu tiên của thế giới sản xuất viên nén với nguyên liệu bã mía. Hiện KAHL là
đơn vị duy nhất sản xuất được 10 - 12 tấn viên nén/giờ. Công nghệ càng hiện đại
thì giá thành sản phẩm càng thấp, chất lượng sản phẩm càng cao mới có thể cạnh
tranh trên thị trường.
Chia sẻ về việc mở rộng nguồn nguyên liệu
thay thế này, ông Nguyễn Thanh Phong, Chi hội trưởng Chi hội viên nén gỗ Việt
Nam cho rằng: Để sản xuất viên nén bằng nguyên liệu từ phế phụ phẩm nông nghiệp,
công nghệ sản xuất không phải thay đổi nhiều, nhưng các doanh nghiệp cần tìm
nhóm khách hàng phù hợp.
BTT