Ngành công nghiệp ô tô là một
ngành kinh tế quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nhiều
quốc gia.
Đối với Việt Nam, trong những năm
qua, ngành công nghiệp ô tô luôn được coi là ngành công nghiệp ưu tiên phát triển
và đã có những đóng góp có ý nghĩa cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước; đã tạo việc làm cho hàng trăm nghìn lao động tại doanh nghiệp, tạo
nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
đã bắt đầu được hình thành và chú trọng phát triển cách đây hơn 20 năm, muộn
hơn so các nước trong khu vực khoảng 30 năm. Thái Lan, Indonesia, Malaysia phát
triển công nghiệp ô tô từ những năm 1960 trong khi tại Việt Nam đến năm 1991
ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mới ra đời.
Bởi vậy, khi Việt Nam mới đặt những
viên gạch đầu tiên để xây dựng ngành thì công nghiệp ô tô tại các nước khác đã
rất phát triển, tạo ra áp lực cạnh tranh lớn, đe dọa nền sản xuất trong nước.
Các nước như Thái Lan, Indonesia
hay Trung Quốc, với lợi thế là những nước đi trước, công nghệ và lao động phát
triển ở trình độ cao hơn, tận dụng được lợi thế kinh tế nhờ quy mô khiến chi
phí sản xuất thấp hơn thì việc họ thành công chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
trong điều kiện thương mại tự do là điều chắc chắn xảy ra nếu Việt Nam không
quyết tâm phát triển ngành công nghiệp ô tô và không có các giải pháp phù hợp để
phát triển ngành này trong tương lai.
Đứng trước cơ hội và thách thức,
Việt Nam đã có những giải pháp chiến lược dài hạn cho công nghiệp ô tô thông
qua “Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2035” (phê duyệt tại Quyết định số 1168/QĐ-TTg ngày 16 tháng 07
năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ); Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (phê duyệt tại Quyết định số
1211/QĐ-TTg ngày 24/07/2014 của Thủ tướng Chính phủ); Quyết định số 229/QĐ-TTg
ngày 04 tháng 02 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ quy định về cơ chế, chính
sách thực hiện Chiến lược phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
116/2017/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2017 quy định điều kiện sản xuất, lắp ráp,
nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô với quan điểm: Công
nghiệp ô tô là ngành tạo động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa, cần được khuyến khích phát triển bằng những chính sách ổn định,
nhất quán và dài hạn; Phát triển ngành công nghiệp ôtô trên cơ sở phát huy tiềm
năng của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu; Phát triển công nghiệp ôtô trên cơ sở bình đẳng giữa sản xuất
trong nước và các doanh nghiệp nhập khẩu ôtô; Đảm bảo quyền lợi của người tiêu
dùng và an toàn môi trường; Phù hợp với các cam kết quốc của Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Những kết quả đạt được : có khoảng trên 40 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, lắp ráp ô tô
Theo số liệu của Cục Đăng kiểm Việt Nam, sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước từ 2018 đến nay như sau: Năm 2018, số lượng xe sản xuất lắp ráp trong nước đạt 287.586 xe; Năm 2019, số lượng xe sản xuất lắp ráp trong nước là 339.151 và Năm 2020, số lượng xe sản xuất lắp ráp trong nước là 323.892. (Ghi chú: số liệu bao gồm cả loại hình xe được sản xuất, lắp ráp từ linh kiện rời và loại hình xe được sản xuất, lắp ráp từ xe sát xi cơ sở hoặc xe mới khác đã được chứng nhận).
Số liệu sản lượng sản xuất lắp ráp và tiêu thụ của 1 số thương hiệu ô tô tại VN từ 2018-2020, nguồn VAMA
Các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp
trong nước đã bước đầu khẳng định vai trò, vị trị đối với thị trường ô tô trong
nước và đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Tính đến hết năm
2020, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam có khoảng trên 40 doanh nghiệp hoạt động
sản xuất, lắp ráp xe ô tô bao gồm ô tô con, ô tải, ô tô khách, ô tô chuyên dùng
và ô tô sát xi. Một số doanh nghiệp nội địa đã tham gia tích cực vào chuỗi sản
xuất ô tô toàn cầu. Tổng công suất lắp ráp theo thiết kế khoảng 755 nghìn
xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 35%, doanh nghiệp
trong nước chiếm khoảng 65%.
Tổng công suất lắp ráp theo thiết
kế đối với xe dưới 9 chỗ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong 3 năm trở
lại đây, sản lượng sản xuất, lắp ráp xe dưới 9 chỗ trên thực tế đã đáp ứng khoảng
70% nhu cầu trong nước.
Các chủng loại xe tải nhẹ dưới 7
tấn, xe khách từ 25 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt
tỷ lệ nội địa hóa cao (khoảng 50% đối với xe tải nhẹ và trên 60% đối với xe
khách), đạt mục tiêu đề ra, đáp ứng cơ bản nhu cầu thị trường nội địa. Trong
đó, một số loại sản phẩm (xe khách, xe con do Thaco sản xuất, lắp ráp) đã xuất
khẩu sang thị trường Thái Lan, Philippines…
Các doanh nghiệp sản xuất và lắp
ráp xe trong nước đã đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng tỷ USD/năm và giải
quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trực tiếp.
Theo đánh giá, thời gian qua,
chất lượng xe sản xuất, lắp ráp trong nước và xe nhập khẩu đã được kiểm
soát chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
Theo CTTĐT BCT