Vùng đồng
bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, là động lực phát triển
hàng đầu
Quan điểm
phát triển vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng,
là động lực phát triển hàng đầu, có vai trò dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền
kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước để tạo đột phá phát triển
nhanh, bền vững. Phát triển vùng phải phát huy vai trò và khai thác hiệu quả
các thế mạnh về địa chính trị, địa kinh tế, điều kiện tự nhiên và các giá trị
văn hoá, lịch sử; các hành lang, vành đai kinh tế, cực tăng trưởng, trung tâm
kinh tế, hệ thống đô thị.
Phát triển
và cơ cấu lại kinh tế vùng phải dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo,
chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
vùng; phải phát huy hiệu quả các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ, các
trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu quốc gia để chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng công nghiệp và dịch vụ hiện đại, nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ,
xanh, tuần hoàn, bảo đảm vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái dẫn đầu
cả nước.
Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, bảo đảm tổ chức không gian hợp lý, hiệu quả, thống nhất, liên kết nội vùng, liên vùng, khu vực và quốc tế, phát huy tối đa những lợi thế của vùng và tác động lan tỏa của các vùng động lực, cực tăng trưởng, các hành lang kinh tế và các cảng quốc tế.
Tầm nhìn đến
năm 2050, Đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái,
thu nhập cao; là trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới;
trung tâm hàng đầu của cả nước về văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số, y tế và chăm sóc sức khoẻ Nhân
dân. Các ngành công nghiệp phát triển với công nghệ hiện đại, chất lượng sản phẩm
đạt tiêu chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển các
ngành, sản phẩm công nghiệp mới, công nghệ cao và chủ động trong các khâu
nghiên cứu, thiết kế, chế tạo. Hình thành các trung tâm dịch vụ lớn mang tầm
khu vực và thế giới về thương mại, du lịch, tài chính, logistics ở Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh. Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả cao. Phát triển
hệ thống đô thị vùng theo hướng xanh, thông minh, bền vững và thích ứng với biến
đổi khí hậu, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có môi trường và chất lượng sống
đô thị cao, có vai trò, vị thế xứng đáng trong mạng lưới đô thị châu Á - Thái
Bình Dương. Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố kết nối toàn cầu; kinh tế, văn
hóa, xã hội phát triển toàn diện, đặc sắc và hài hòa, tiêu biểu cho cả nước;
ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Phấn đấu
GRDP bình quân khoảng 9,0 - 9,5%/năm
Vùng Đồng
bằng sông Hồng phấn đấu trong kỳ quy hoạch đến năm 2030 đạt được những chỉ tiêu
sau:
Tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn vùng (GRDP) bình quân khoảng 9,0 -
9,5%/năm; GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng
11.000 - 12.000 USD/người.
Tỷ trọng
trong GRDP của khu vực dịch vụ đạt khoảng 41%; công nghiệp - xây dựng khoảng
47%; nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 3,5% GRDP; thuế sản phẩm trừ trợ cấp chiếm
khoảng 8,5% GRDP; kinh tế số đạt khoảng 35% GRDP.
Tỷ lệ
doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo chiếm 50% tổng số doanh nghiệp hoạt
động; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội đạt trên 7,0%/năm. Tỷ lệ đô thị hóa
đạt trên 55%. Diện tích sàn nhà ở bình quân đầu người khu vực đô thị đạt khoảng
32 - 33 m2.
Tỷ lệ lao
động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48 - 52%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực
thành thị duy trì ở mức dưới 3%; 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Kết cấu hạ
tầng đồng bộ, hiện đại, hoàn thiện các tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía
Đông đi qua địa bàn vùng, các tuyến đường bộ kết nối, các tuyến vành đai vùng
Thủ đô Hà Nội, đường bộ ven biển. Mở rộng Cảng hàng không Quốc tế Nội Bài, hoàn
thiện hạ tầng các cảng biển Hải Phòng, Quảng Ninh. Hoàn thành đưa vào khai thác
các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội.
Tổ chức
các hoạt động kinh tế - xã hội thành 02 tiểu vùng: phía Bắc sông Hồng và phía
Nam sông Hồng
Theo quy
hoạch vừa được phê duyệt, tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội của vùng thành
02 tiểu vùng (phía Bắc sông Hồng và phía Nam sông Hồng) với 01 vùng động lực quốc
gia (bao gồm thành phố Hà Nội và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục quốc lộ 5
và quốc lộ 18 qua các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, thành phố Hải Phòng
và tỉnh Quảng Ninh), 04 cực tăng trưởng (gồm Thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng
Ninh, Hải Phòng) và 05 hành lang kinh tế (02 hành lang kết nối quốc tế; 03 hành
lang kết nối vùng).
Tiểu vùng phía Bắc gồm 07 tỉnh và thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Phát triển tiểu vùng phía Bắc
gắn chặt với phát triển vùng Thủ đô Hà Nội.
Tập trung
phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, chế tạo có giá trị
gia tăng cao, đặc biệt là công nghiệp cơ điện tử, chíp bán dẫn, sản phẩm công
nghệ số, trí tuệ nhân tạo, sản xuất robot. Phát triển dịch vụ, thương mại, tài
chính - ngân hàng, dịch vụ vận tải - logistics, du lịch tầm quốc tế; dẫn đầu cả
nước về giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, văn hóa
và thể dục thể thao, y tế và chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Bảo đảm gắn kết chặt
chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, an ninh và trật tự xã hội, củng
cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân.
Tiểu vùng phía Nam gồm 04 tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình: Phát triển các
khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ
cấu kinh tế; phát triển các ngành nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn;
công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản, công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo,
năng lượng sạch; phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hoá, tâm
linh gắn với bảo vệ môi trường; phát triển một số lĩnh vực dịch vụ như vận tải,
kho bãi và nhất là dịch vụ du lịch kết nối với tiểu vùng Bắc Trung Bộ. Bảo vệ tốt
môi trường sinh thái vùng bờ và các nguồn lợi thủy, hải sản; bảo vệ và phát triển
hệ sinh thái rừng phòng hộ ven biển.
Theo BCP