Tại Diễn
đàn Doanh nghiệp đồng hành cùng Nhà nông và phát triển bền vững năm 2024 diễn
ra mới đây tại Hà Nội, TS Phùng Hà, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân
bón Việt Nam, chia sẻ và nêu bật tính cấp thiết của việc sử dụng phân bón thích
ứng với biến đổi khí hậu và nông nghiệp xanh ở Việt Nam.
Dẫn số liệu
của Bộ NN-PTNT, TS Phùng Hà cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia bị
tác động mạnh mẽ do biến đổi khí hậu, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long, một
trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất bởi nước biển dâng.
Theo Bộ
Tài nguyên và Môi trường, ước tính đến năm 2050, mực nước biển sẽ tăng thêm
33cm, đến năm 2100 là 100cm, ước chừng 5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số,
10,2% GDP, 10,9% vùng đô thị, 7,2% diện tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp
sẽ bị ảnh hưởng.
TS Phùng Hà, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam
nêu lên tính cấp thiết của việc sử dụng phân bón thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ảnh: PT.
Trong bối
cảnh báo động đó, các loại phát thải khí nhà kính chính trong nông nghiệp đang
đóng góp khoảng 13,5% tổng lượng phát thải.
Lượng phát
thải các khí nhà kính có thể xảy ra trực tiếp trong các hoạt động nông nghiệp
(trồng trọt, thu hoạch) hoặc gián tiếp trong quá trình sản xuất, vận chuyển
nguyên liệu, sản phẩm.
Việt Nam
đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu đảm bảo giữ nhiệt độ trái
đất tăng không quá 1,5 độ C tại COP21, giảm phát thải ròng carbon của quốc gia
về 0 vào năm 2050 tại COP26.
Do vậy, TS
Phùng Hà đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng nông nghiệp hữu cơ
để ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Theo Phó
Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam, ngành nông nghiệp bị ảnh
hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, mặt khác đây cũng là ngành phát thải khí
nhà kính nhiều thứ hai sau ngành năng lượng. Lượng phát thải sinh ra từ các quá
trình sản xuất và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, quản lý đất, trồng
lúa nước... Trong khi đó, nông nghiệp hữu cơ là lựa chọn phù hợp vì sử dụng
nguyên liệu đầu vào gồm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ít phát thải ô nhiễm.
Xác định
giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp nói chung và ngành phân bón
nói riêng là nhiệm vụ quan trọng để ứng phó với biến đổi khí hậu, TS. Phùng Hà
nêu ra các giải pháp, gồm: đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển ammoniac xanh, hóa
học xanh và tập trung vào phương thức quản lý, điều chỉnh thành phần dinh dưỡng
theo nhu cầu của cây trồng nhằm giảm thất thoát ra môi trường.
Đặc biệt,
đối với phân đạm, việc tăng cường sử dụng phân hữu cơ, phân bón hiệu quả cao,
phân bón lá và sử dụng phụ gia ức chế các quá trình phát thải N2O, phụ gia chống
mặn, chống ngập lụt, ưu tiên sử dụng các chất có nguồn gốc tự nhiên từ khoáng
chất, thực vật cũng đóng vai trò quan trọng.
Đi vào những
giải pháp cụ thể, TS Phùng Hà cho rằng cần áp dụng nghiêm túc sáng kiến “4
đúng” trong quản lý phân bón: đúng loại, đúng tỷ lệ, đúng lúc và đúng cách.
Công tác nghiên cứu nông nghiệp chính xác sẽ cung cấp một loạt các công nghệ
giám sát giúp nông dân sử dụng chính xác chủng loại và lượng phân bón.
Ngoài ra,
việc phát triển rộng rãi của các dạng phân bón đặc biệt là phân bón phân giải/tan
chậm, kiểm soát phân giải sẽ giúp đạt được mục đích cuối cùng của bón phân đúng
nhằm tăng sự hấp thu phân bón của cây trồng, đồng thời giảm tác hại đến môi trường.
Phân lân nung chảy được các nhà khoa học xác định và công nhận là một
trong những dòng sản phẩm phân bón 'nhả chậm', thích ứng biến đổi khí hậu, thân
thiện môi trường.
TS Phùng
Hà cũng đề cập đến tầm quan trọng của tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ, như:
thay thế phân bón tổng hợp bằng phân chuồng, phân trộn hoặc phân hủy có khả
năng giảm lượng khí thải từ 10 - 20% hoặc cao hơn; bổ sung chất hữu cơ cho đất
(compost, phân gia súc, phân xanh, trùn quế) để tăng hàm lượng carbon trong lớp
đất mặt, tạo liên kết với amoni và cố định vi sinh vật.
Việc sử dụng
phân bón hữu cơ sẽ góp phần đảm bảo độ phì nhiêu cho đất, giúp nâng cao khả
năng chống chịu với các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, tăng cường đa dạng
sinh học.
Trong bối
cảnh đó, nhu cầu về phân lân hữu cơ cũng ngày càng tăng do quá trình chuyển đổi
sang các phương pháp nông nghiệp bền vững và nhu cầu của người tiêu dùng đối với
thực phẩm hữu cơ.
Những loại
phân bón này không chứa bất kỳ hóa chất nguy hiểm nào và việc sử dụng chúng sẽ
ngăn ngừa suy thoái và ô nhiễm đất.
Đi theo xu
hướng đó, các nhà sản xuất phân bón đang chi tiêu đáng kể vào nghiên cứu và
phát triển để tạo ra các sản phẩm mới và có tính sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về phân lân. Tiêu biểu trong số đó, việc sử dụng phân bón tan chậm
có thể làm tăng năng suất nông nghiệp trong khi cần ít phân bón hơn.
Là đơn vị
đưa ra giải pháp phân bón thích ứng với biến đổi khí hậu tại diễn đàn, ông Hà
Huy San, Trưởng Phòng Kỹ thuật, Công ty Cổ phần Phân lân Ninh Bình chia sẻ và cho
biết, theo lý giải của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), dự đoán vào năm
2050, hơn 70% dân số thế giới sẽ sống ở các thành phố.
Vì thiếu đất
canh tác trên khắp thế giới, nông dân đang bị buộc phải sử dụng thêm nhiều phân
bón để tăng sản lượng nông nghiệp.
Đáp ứng được
nhu cầu trên, Công ty Cổ phần Phân lân Ninh Bình đã phát triển dòng sản phẩm phân
lân nung chảy của có đặc tính không tan trong nước nhưng tan được trong môi
trưởng axit yếu do đầu rễ cây tiết ra. Do đó, cây trồng có thể hấp thụ được
mà lân không bị cố định trong đất, an toàn về môi trường sinh thái.
"Phân
lân nung chảy Ninh Bình dùng trong trồng trọt hữu cơ đều phải đáp ứng đầy đủ
tiêu chí được yêu cầu. Đồng thời, nguyên liệu sản xuất có nguồn gốc từ tự
nhiên, không sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất", ông San chia sẻ thêm về dòng sản phẩm.
Từ các thực
tiễn nghiên cứu và phân tích về tác động của dòng sản phẩm phân lân nung chảy đối
với môi trường và các mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh ở Việt Nam, mới đây,
Bộ Khoa học và Công nghệ cũng vừa ban hành quyết định công bố tiêu chuẩn quốc
gia TCVN 1078:2023 về sử dụng phân lân nung chảy cho nông nghiệp hữu cơ.
HHPBVN