Nhu cầu dự trữ khí đốt của Châu Âu cho mùa đông đang tăng, làm giá LNG trên toàn cầu tăng mạnh, dẫn đến nguồn cung cho châu Á giảm, giá tăng. Theo số liệu của S&P Platts và Clyde Russell, khí đốt tự nhiên được dự trữ tại Liên minh Châu Âu hiện đạt 58,9% công suất.
Các chính
sách năng lượng xanh của Châu Âu, bao gồm việc loại bỏ dần các nhiên liệu thay
thế như than và hạt nhân, đã khiến Châu Âu phụ thuộc rất nhiều vào giá mua khí
đốt LNG đắt đỏ.
Giá LNG
liên tục tăng cao gây ra căng thẳng tài chính dài hạn cho các nước và ngành
công nghiệp Châu Âu, trong khi Châu Á thường dựa vào các nhiên liệu thay thế,
giá cả rẻ hơn như than và khí gas LPG.
Châu Âu đã
tăng cường mua khí đốt tự nhiên hóa lỏng để dự trữ cho mùa đông, và điều này đã
đẩy giá lên cao, làm giảm nguồn cung cho Châu Á. Giá có thể vẫn giữ ở mức cao
cho đến khi công suất LNG mới đi vào hoạt động.
Theo số liệu
của S&P Platts và Clyde Russell, khí đốt tự nhiên được dự trữ tại Liên minh
Châu Âu hiện đạt 58,9% công suất. Vào thời điểm này năm ngoái, khí đốt được dự
trữ đạt 75,5% công suất. Theo mục tiêu dự trữ của EU, con số này cần đạt 90%
vào tháng 11/2025 hoặc chậm nhất là vào tháng 12/2025. Điều này có nghĩa là người
mua Châu Âu không có lựa chọn nào khác ngoài việc tăng cường mua LNG, bất kể
giá bao nhiêu, vì họ không có lựa chọn nào khác.
Russell
đưa tin, trích dẫn số liệu của Kpler, nguyên nhân là do châu Âu cố tình loại bỏ
các nhiên liệu thay thế như than và hạt nhân, cụ thể là ở Đức và Tây Ban Nha.
Việc loại bỏ này - với danh nghĩa chuyển đổi sang sản xuất năng lượng phát thải
thấp - đã làm giảm tính linh hoạt trong việc lựa chọn nhiên liệu của các quốc
gia châu Âu. Vì vậy, châu Âu đã nhập khẩu rất nhiều LNG, lên tới khoảng 208,62
triệu tấn trong sáu tháng đầu năm 2025, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.
Việc nhập
khẩu LNG sẽ tiếp tục bất kể điều gì xảy ra. Ví dụ, tháng trước, giá tăng đột biến
là do cuộc chiến giữa Israel và Iran. Việc châu Âu vẫn chủ yếu không muốn ký
các hợp đồng dài hạn, đã khiến họ dễ bị ảnh hưởng trước những biến động giá như
vậy - trong khi châu Á vẫn trung thành với việc sử dụng than đá nếu giá khí đốt
tăng cao.
Trong
tháng 6/2025, giá LNG giao ngay tại châu Á có lúc lên mức cao nhất là 14
USD/1triệu đơn vị nhiệt Anh trước khi giảm xuống còn 13,1 USD vào tuần cuối
cùng của tháng. Phí bảo hiểm chiến tranh đóng vai trò lớn trong mức giá tăng vọt
đó, nhưng lượng hàng liên tục được xuất khẩu sang châu Âu. Trong khi đó, các
nhà nhập khẩu châu Á đã giảm nhập khẩu khi giá tăng cao. Nhưng Trung Quốc có thể
giảm nhập khẩu LNG vì họ có thể tăng cường nhập khẩu qua đường ống từ Nga và
Trung Á. Châu Âu không có nguồn cung thay thế. Nói cách khác, châu Âu bị mắc kẹt
với LNG vì Na Uy không thể tăng sản lượng khí đốt nhanh hoặc cao như mức cần
thiết nếu châu Âu muốn có nguồn cung khí đốt thay thế. Tuy nhiên, điều đáng chú
ý là nhiều nhà nhập khẩu năng lượng châu Á đã hứa sẽ mua nhiều khí hóa lỏng của
Mỹ hơn, cụ thể là để tránh đòn thuế quan mà Tổng thống Trump đã áp đặt với thế
giới. Tuy nhiên, xét về giá cả, các hợp đồng dài hạn có xu hướng mang lại mức
giá ổn định hơn, giúp cả người mua và người bán tránh khỏi sự thay đổi thất thường
của giá giao ngay.
Tuy nhiên,
ngay cả với các cam kết mua LNG của Mỹ, thì Ấn Độ cũng đã giảm 8,7% lượng LNG
nhập khẩu trong nửa đầu năm 2025, chứng tỏ giá cả vẫn là yếu tố quyết định. Lượng
LNG nhập khẩu của Trung Quốc cũng giảm mạnh hơn nhiều, 22%. Cuộc chiến thuế
quan với Mỹ chắc chắn là một yếu tố lớn, nhưng nhu cầu của châu Âu cũng đóng một
vai trò quan trọng. Với những người mua châu Âu sẵn sàng trả thêm tiền để lấp đầy
các kho dự trữ đó, các thương nhân khí đốt Trung Quốc đã rất vui khi bán lại
các lô hàng LNG cho châu Âu, đặc biệt là những lô hàng nhập khẩu từ Mỹ và phải
chịu mức thuế nhập khẩu mới để đáp trả thuế quan của Mỹ.
Vì vậy, rất
có thể châu Âu sẽ tiếp tục phải trả thêm tiền để đảm bảo dự trữ khí đốt của
mình cho mùa cao điểm. Thông thường, sẽ không có vấn đề gì lớn với điều đó. Tuy
nhiên, ngay bây giờ, châu Âu đang ngày càng dàn trải các kế hoạch chi tiêu,
ngay khi các ngành công nghiệp nặng của họ bắt đầu báo động về giá năng lượng
quá đắt, nghĩa là phải chi tiêu nhiều hơn nữa để duy trì các ngành công nghiệp
quan trọng như sản xuất thép.
VITIC