Bộ Tài chính đang đề xuất Chính phủ xem xét
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội giảm kịch khung thuế bảo vệ môi trường đối với
xăng dầu nhằm góp phần kiềm chế lạm phát tới đây. Theo đó, nếu giảm 50% thuế bảo
vệ môi trường còn lại (từ ngày 1.4.2022 đã giảm 50% - PV), sẽ giảm thêm từ 1.000
đồng/lít đối với dầu và 2.000 đồng/lít với xăng. Thế nhưng, theo tính toán của
chuyên gia, 50% thuế bảo vệ môi trường còn lại “không đáng là bao” nếu so với
các loại thuế phí khác đang đánh vào giá xăng dầu bán lẻ, chiếm đến hơn 34%.
Cụ thể, mỗi lít xăng RON95-III có giá bán lẻ
hiện hành là 32.370 đồng/lít. Trong đó, giá nhập về đến cảng là 22.389 đồng. Từ
đây, giá được cộng thêm: thuế nhập khẩu 10% là 2.239 đồng (lấy tròn số), thuế
tiêu thụ đặc biệt 10% là 2.239 đồng, thuế giá trị gia tăng 10% (trên giá bán)
là 2.943 đồng, thuế bảo vệ môi trường với xăng 2.000 đồng, số còn lại là các
chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức, trích lập quỹ bình ổn. Như vậy,
riêng 4 loại thuế nói trên, một lít xăng bán ra, người tiêu dùng đã phải trả
hơn 9.400 đồng, tương đương hơn 29%. Nếu cộng thêm các chi phí kinh doanh, lợi
nhuận và trích lập quỹ, tổng cộng các loại thuế phí đánh vào một lít xăng chiếm
hơn 34%. Tức là, nếu mua 100.000 đồng tiền xăng, người tiêu dùng phải gánh hơn
34.000 đồng các loại thuế phí. Còn nếu bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt và tạm ngưng
thu thuế giá trị gia tăng và thuế nhập khẩu, giá xăng từ hơn 32.000 đồng sẽ về
khoảng 23.000 đồng/lít. Đây là mức giá xăng “trong mơ” cho người dân trong bối
cảnh hiện nay.
Đó là chưa nói công thức tính thuế đối với mặt
hàng xăng dầu có dấu hiệu thuế chồng thuế. Chẳng hạn, thuế giá trị gia tăng
đánh 10% trên giá bán ra, mà trong rổ “giá bán” đã bao gồm các loại thuế nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường. Chuyên gia kinh tế,
PGS-TS Phạm Thế Anh (Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội) nhận định thuế bảo vệ môi
trường sau khi giảm 50% từ ngày 1.4 vừa qua, nay chỉ còn 1.000 - 2.000 đồng/lít
xăng dầu. Giả sử có giảm thì cũng chỉ mang tính tạm thời, hết năm nay lại thu
trở lại. Thế nên, một loại thuế cần loại bỏ hẳn đối với mặt hàng thiết yếu như
xăng dầu là thuế tiêu thụ đặc biệt. “Vấn đề này tôi đề cập nhiều trước đây,
xăng là mặt hàng thiết yếu, hầu như phải sử dụng hằng ngày và người dân không
có lựa chọn nào khác ngoài việc buộc phải mua để sử dụng nên không thể đánh thuế
tiêu thụ đặc biệt cùng với những mặt hàng không khuyến khích sử dụng. Còn lại,
cần giảm nữa là thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng… Như vậy, riêng 3 loại
thuế vừa đề cập, người tiêu dùng đã đóng hơn 7.000 đồng/lít xăng dầu. Hiện nay,
giá xăng thế giới đang tăng, giá nhập khẩu sau mỗi 10 ngày đều tăng cao hơn kỳ
trước, bằng chứng là giá xăng trong nước có 6 lần tăng liên tiếp. Giá nhập khẩu
càng tăng, 3 loại thuế nói trên càng tăng theo tỷ lệ thuận. Đây chính là gánh nặng
thực sự cho người tiêu dùng và cả nền kinh tế trong thời gian tới”, ông Thế Anh
nhấn mạnh.
Cần chính sách kịp thời
Chia sẻ tại buổi gặp gỡ báo chí phía nam chiều
14.3, Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải thừa nhận việc bảo đảm nguồn cung
xăng dầu mà chỉ trông chờ vào nhà máy lọc dầu trong nước là “chưa hết khó
khăn”. Trong thực tế, Bộ phải chỉ đạo các doanh nghiệp đầu mối tăng nhập khẩu để
bù vào khoản thiếu hụt do nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn giảm công suất. Việc giải
quyết để bảo đảm nguồn cung thị trường trong nước trong 2 quý đầu năm cơ bản đã
được thực hiện tốt, nhưng quý 3 và quý 4 vẫn còn nhiều khó khăn cần điều hành
linh hoạt. Để chủ động nguồn cung, Bộ đã chỉ đạo các công ty đầu mối tăng sản
lượng nhập khẩu lên. Thế nên, trong bối cảnh giá xăng dầu thế giới đang leo
thang thì giá trong nước khó bảo đảm giảm được.
Cũng theo Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải, việc kiềm
chế mức tăng giá xăng dầu không thể là câu chuyện của một bộ nào mà ở tầm Chính
phủ. Phải có và tiếp tục duy trì chính sách về an sinh xã hội, hỗ trợ doanh
nghiệp để giảm nhiệt giá xăng. Trước đó, một trong những chỉ đạo quan trọng của
Phó thủ tướng Lê Minh Khái trong cuộc họp với các bộ ngành đã nhấn mạnh: Việc
điều hành giá xăng dầu trong thời gian tới hết sức linh hoạt, sử dụng quỹ bình ổn
hợp lý. Triển khai các biện pháp đảm bảo nguồn cung và dự phòng phương án nhập
khẩu cần thiết, không để bị động.