Giá dầu thô Brent có lúc giảm còn 93 USD/thùng trong phiên giao dịch hôm 14-9; trong khi giá dầu WTI có thời điểm giảm còn 87,20 USD/thùng.

Giá dầu sụt giảm sau khi báo cáo về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 của Cục Thống kê Lao động Mỹ hôm 13-9 cho thấy lạm phát ở Mỹ cao hơn dự báo. Lạm phát vẫn tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm ngoái dù giá xăng giảm mạnh.

Lạm phát lõi, không tính giá thực phẩm và năng lượng, cũng tăng 0,6% so với tháng 7 và tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2021. Giới phân tích dự báo FED sẽ tuyên bố tăng lãi suất 0,75% lần thứ 3 liên tiếp để ngăn lạm phát trong cuộc họp vào ngày 20 và 21-9 sắp tới.

Tại Trung Quốc, các biện pháp hạn chế phòng dịch Covid-10 đang làm giảm nhu cầu nhiên liệu của nhà nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới này. Các kho dự trữ dầu thô của Mỹ cũng cho tăng khoảng 6 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 9-9, theo số liệu của Viện Dầu khí Mỹ.

Giá dầu cũng điều chỉnh giảm sau khi Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hôm 13-9 thông báo vẫn giữ nguyên dự báo về tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu mạnh mẽ trong năm 2022 và 2023.

Trong khi đó tại Anh, theo đài CNBC, lạm phát đã giảm vào tháng 8 nhờ giá nhiên liệu giảm nhưng giá lương thực tiếp tục tăng trong bối cảnh cuộc khủng hoảng giá sinh hoạt vẫn tiếp diễn.

Theo ước tính do Văn phòng Thống kê quốc gia Anh (ONS) hôm 14-9 công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 8 tăng 9,9%, thấp hơn so với dự báo 10,2% từ các nhà kinh tế do Reuters thăm dò và giảm từ mức 10,1% hồi tháng 7.

Anh vẫn đang đối mặt với mức lạm phát cao nhất trong số các nền kinh tế lớn và Ngân hàng Trung ương Anh nhiều khả năng sẽ tiếp tục tăng lãi suất vào ngày 22-9 tới.

Theo Financial Times, tỉ lệ thất nghiệp ở Anh có dấu hiệu giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 1974 trong bối cảnh nền kinh tế đình trệ, làm tăng lo ngại tình trạng thiếu lao động khiến vấn đề lạm phát trầm trọng thêm.

Số liệu của ONS công bố hôm 13-9 cho thấy tỉ lệ thất nghiệp tại Anh trong 3 tháng tính đến tháng 7, giảm xuống mức 3,6%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với quý trước. Tỉ lệ có việc làm cũng giảm 0,2%, xuống mức 75,4%.

Số liệu của ONS cũng cho thấy, tỉ lệ thất nghiệp giảm không phải do số người có việc làm tăng mà do có thêm nhiều người cho biết họ không đi làm và không tìm kiếm việc do đi học hoặc điều kiện sức khỏe không bảo đảm.

Bà Yael Selfin, nhà kinh tế trưởng tại Công ty Tài chính KPMG (Anh), cho rằng bất chấp sự tăng trưởng về việc làm, tổng số giờ làm việc hằng tuần đã giảm so với quý trước đó, dẫn đến số giờ làm trung bình giảm.

Điều này cho thấy các công ty giảm giờ làm của nhân viên thay vì sa thải họ, phù hợp với thực tế tỉ lệ thất nghiệp tương đối thấp. Việc thanh toán các khoản chi phí cho người lao động tiếp tục siết chặt do tăng trưởng tiền lương không theo kịp với lạm phát tăng vọt.