Cả hai số liệu kể
trên đều vượt qua kỳ vọng của các nhà phân tích với biên độ lớn và vào tháng 1,
tỷ lệ thất nghiệp đạt mức thấp nhất trong 53 năm là 3,4% . Với việc công bố số
liệu tháng 2 gần đây, tỷ lệ thất nghiệp hiện được báo cáo ở mức cao hơn một
chút là 3,6%.
Tỷ lệ thất nghiệp thấp là một dấu hiệu cổ điển của một nền kinh tế mạnh. Tuy nhiên, như hình dung này cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp thường đạt đến mức thấp nhất theo chu kỳ ngay trước khi suy thoái kinh tế xảy ra.
Lý do cho xu hướng
Trong một cuộc
phỏng vấn liên quan đến dữ liệu việc làm tháng 1/2023, Bộ trưởng Tài chính Mỹ -
Janet Yellen đã đưa ra một tuyên bố táo bạo:
“Bạn không bị
suy thoái khi có 500.000 việc làm và tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong hơn 50
năm”
Mặc dù đánh giá
này không có gì sai, nhưng xu hướng mà chúng tôi đã nhấn mạnh cho thấy rằng
Yellen có thể cần quay lại trong tương lai gần. Vậy tại sao suy thoái có xu hướng
bắt đầu sau khi tỷ lệ thất nghiệp chạm đáy?
Chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế đề
cập đến xu hướng dao động tự nhiên của nền kinh tế giữa các giai đoạn tăng trưởng
và suy thoái.
Điều này có thể
được liên tưởng tương tự như bốn mùa trong một năm. Một nền kinh tế mở rộng và
phát triển (mùa xuân), đạt đến đỉnh cao (mùa hè), bắt đầu co lại (mùa thu), sau
đó chạm đáy (mùa đông).
Với suy nghĩ
này, thật hợp lý khi cho rằng tỷ lệ thất nghiệp thấp theo chu kỳ (việc làm cao
điểm) chỉ đơn giản là một dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đã đạt đến điểm cao.
Chính sách tiền tệ và những mâu thuẫn giữa các chính
trị gia với những nhà kinh tế
Trong thời kỳ tỷ
lệ thất nghiệp thấp, người sử dụng lao động có thể gặp khó khăn hơn trong việc
tìm kiếm công nhân. Điều này buộc họ phải đưa ra mức lương cao hơn, và điều đó có
thể góp phần gây ra lạm phát.
Để biết bối cảnh,
hãy xem xét tình trạng thiếu lao động xuất hiện sau đại dịch COVID-19. Chúng ta
có thể thấy rằng mức tăng lương của Mỹ đã tăng đáng kể và giữ ở mức trên 6% kể
từ tháng 3 năm 2022.
Cục Dự trữ Liên
bang, với nhiệm vụ đảm bảo ổn định giá cả, đã và sẽ thực hiện các biện pháp để
ngăn chặn lạm phát tăng quá cao. Trên thực tế, điều này liên quan đến việc tăng
lãi suất, khiến cho việc vay mượn trở nên đắt đỏ hơn và làm giảm hoạt động kinh
tế. Các công ty ít có khả năng mở rộng, giảm đầu tư và cắt giảm việc làm. Mặt
khác, người tiêu dùng giảm số lượng mua hàng lớn mà họ thực hiện.
Vì những phản ứng
này, một số người tin rằng việc Fed tăng lãi suất mạnh mẽ có thể gây ra suy
thoái hoặc làm cho chúng tồi tệ hơn. Điều này được hỗ trợ bởi một nghiên cứu gần
đây cho thấy rằng kể từ năm 1950, các ngân hàng trung ương đã không thể làm chậm
lạm phát nếu không xảy ra suy thoái ngay sau đó.
Fed đã tăng lãi suất với tốc độ chưa từng thấy kể từ tháng 3 năm 2022 để ngăn chặn lạm phát cao.
Gần đây hơn, Chủ
tịch Fed - Jerome Powell cảnh báo rằng lãi suất có thể tăng cao hơn dự kiến
ban đầu nếu lạm phát tiếp tục cao hơn mục tiêu. Thượng nghị sĩ Elizabeth
Warren bày tỏ lo ngại rằng điều này sẽ khiến người Mỹ mất việc làm và cuối cùng
là gây ra suy thoái kinh tế.
Theo báo cáo
riêng của Fed, nếu tiếp tục tăng lãi suất như kế hoạch, tỷ lệ thất nghiệp sẽ là
4,6% vào cuối năm nay.
CGPTHH Nguyễn Phương Nam - VCT