Nhiều mặt hàng gia vị của
Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường quốc tế
9
tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu 78.599 tấn gia vị, tăng 24,1% so với
cùng kỳ năm trước. Các thị trường nhập khẩu lớn như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ…
Việt
Nam hiện có 120.000 ha trồng hồ tiêu, cho sản lượng khoảng 190.000 tấn/năm. Với
cây hồi, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới, sau Trung Quốc, sản lượng hàng năm
ước khoảng hơn 20.000 tấn trên diện tích trồng khoảng 55.000 ha. Riêng đối với
cây quế, diện tích quế ở Việt Nam đạt khoảng 171.000 ha, chiếm 17% diện tích quế
toàn cầu... Việt Nam cũng là quốc gia sản xuất và xuất khẩu quế đứng thứ ba thế
giới về sản lượng, đạt 46.000 tấn, sau Indonesia và Trung Quốc.
Nhưng chưa có chiến lược
phát triển bền vững
Ông
Nguyễn Như Tiệp - cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cho
biết, Việt Nam có tiềm năng lớn sản xuất các loại gia vị như quế, hồi, các loại
rau gia vị đặc trưng cho ẩm thực châu Á. Bên cạnh các thị trường trọng điểm, thị
trường có nhiều cộng đồng cư dân châu Á sinh sống cũng là hướng đi mới với tệp
khách hàng tiềm năng trong tiêu dùng các sản phẩm đặc sản nhiệt đới và sản phẩm
gia vị. Do xu hướng gia tăng nhu cầu nguyên liệu trong các ngành công nghiệp thực
phẩm, hóa mỹ phẩm, dược phẩm… hiện nay, quế, hồi Việt Nam được tiêu thụ mạnh ở
nhiều khu vực Nam Á (Ấn Độ, Bangladesh), Trung Đông (UAE, Pakistan), Đông Á (Nhật
Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu
(EU).
Ông
Lê Việt Anh, Chánh văn phòng Hiệp hội Hồ tiêu và gia vị Việt Nam (VPSA) cho rằng:
nhu cầu về gia vị của các thị trường vẫn ở mức cao và Việt Nam đang có nhiều
thuận lợi về xuất khẩu gia vị nhất là khi có các Hiệp định Thương mại tự do như
EVFTA, CPTPP… Tuy nhiên, ngành gia vị Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách
thức. Cụ thể, ngoại trừ hồ tiêu, các mặt hàng gia vị khác như quế, hoa hồi, ớt…
chưa có chiến lược phát triển bền vững. Trong khi đó các doanh nghiệp vẫn thiếu
thốn về công nghệ, thiếu vốn để đầu tư chế biến sâu nâng cao giá trị sản phẩm.
Các yếu tố bất ổn địa chính trị có thể là nguyên nhân tiếp tục gây ra những bất
ổn về giá hơn là yếu tố cung cầu, trong khi sự cạnh tranh từ các nước sản xuất
khác như hồ tiêu ở Brazil, quế ở Indonesia và Trung Quốc vẫn dai dẳng. Ngoài
ra, diễn biến khó lường của biến đổi khí hậu cũng là thách thức chính đối với
ngành nông nghiệp trên toàn cầu trong khi các loại chi phí tiếp tục gia tăng sẽ
tác động lớn đến nguồn cung….
Đánh
giá về xu hướng thị trường gia vị thế giới để định hướng sản xuất tại Việt Nam,
đại diện Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cho rằng, các mặt
hàng, sản phẩm từ quế, hồi và cây dược liệu đang ngày càng được quan tâm và mở
rộng thị trường xuất khẩu do những thay đổi trong nhận thức, quan điểm và thị
hiếu của người tiêu dùng đối với lối sống xanh, sạch, tốt cho sức khỏe và hỗ trợ
tăng miễn dịch. Xu hướng tiêu dùng đang hướng tới các sản phẩm an toàn và thân
thiện với môi trường và hành vi tiêu dùng đã có sự điều chỉnh theo hướng phát
triển bền vững, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, tạo ra sản phẩm có giá trị gia
tăng, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu thị trường và cuối cùng là ứng dụng nền tảng
số, công nghệ vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị.
Minh bạch trong sản xuất
để nâng cao giá trị sản phẩm
Đứng
ở góc độ thị trường, ông Trần Văn Công, Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại Liên
minh châu Âu (EU) nhận định, châu Âu là một trong những khu vực nhập khẩu gia vị
và hương liệu hàng đầu, chiếm khoảng 1/4 tổng lượng nhập khẩu của thế giới, với
hơn 95% hàng nhập khẩu từ bên ngoài châu Âu đến từ các nước đang phát triển.
Trong đó riêng nhập khẩu từ các nước đang phát triển đạt 1,8 tỷ Euro và chiếm
60% lượng nhập khẩu của châu Âu giai đoạn 2019-2021, tăng 9%/năm. Ngoài ra, giá
nhập khẩu trung bình ở châu Âu cũng cao hơn so với hầu hết các khu vực khác. Ví
dụ, giá trung bình của các loại gia vị nhập khẩu ở châu Âu cao gần gấp đôi so với
giá ở châu Á. Điều này khiến châu Âu trở thành thị trường mục tiêu cho các nhà
xuất khẩu từ các nước đang phát triển. Tuy nhiên, xuất khẩu vào thị trường này
cần lưu ý một số yêu cầu như kiểm soát chặt chẽ về chất độc hại, chất gây dị ứng,
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, xử lý nhiệt, kiểm dịch thực vật, chứng nhận an
toàn thực phẩm, chuỗi cung ứng minh bạch...
Đối
với một thị trường trọng điểm khác của gia vị Việt Nam là Hoa Kỳ, ông Phạm
Quang Huy, Tham tán Nông nghiệp Việt Nam tại Hoa Kỳ chia sẻ, nhu cầu về gia vị
của thị trường này đang ngày càng tăng cao do nhu cầu tăng sức đề kháng, bảo vệ
sức khỏe của người tiêu dùng hậu Covid-19. Để tăng thị phần gia vị Việt Nam tại
thị trường này cũng như đưa Việt Nam trở thành điểm đến được lựa chọn trong chuỗi
cung ứng gia vị toàn cầu, ông Huy cho rằng bên cạnh các sản phẩm thô, cần đa dạng
hóa sản phẩm gia vị phục vụ ngành công nghiệp thực phẩm, hóa mỹ phẩm, dược phẩm...
Riêng với ẩm thực, có thể tăng độ nhận diện của các loại gia vị bằng cách kết hợp
cùng nước mắm bên cạnh các món ăn như phở, nem vốn đã phổ biến và được ưa thích
tại thị trường hàng trăm triệu dân này.
Theo
ông Huy, cây gia vị không chỉ đem lại giá trị kinh tế mà còn là nguồn gen quý,
bản địa, giúp xóa đói giảm nghèo, góp phầm bảo tồn đa dạng sinh học dưới tán rừng...
Đây là những yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp có thể đưa vào để quảng bá sản
phẩm gia vị Việt Nam trước xu hướng tiêu dùng xanh, bảo vệ môi trường, giảm
phát thải của thị trường Hoa Kỳ.
Ông
Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách (Bộ Công
Thương) cho rằng, thúc đẩy xuất khẩu gia vị cần gắn với đẩy mạnh nghiên cứu và ứng
dụng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là các công nghệ của cuộc Cách
mạng công nghệ 4.0. Tiếp đó là đổi mới, đa dạng hóa các phương thức xúc tiến
thương mại phục vụ xuất khẩu gia vị thông qua việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động xúc tiến thương mại.
Ngoài
ra, ông Hội cho rằng, cần nâng cao hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm
gia vị xuất khẩu; chú trọng xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm
gia vị xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Cuối cùng là tăng tỷ trọng các sản phẩm
gia vị xuất khẩu có giá trị gia tăng, có hàm lượng khoa học - công nghệ, các sản
phẩm kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Theo
HQO