Các nhà khoa học cho biết, vỏ cây có thể chiếm tới 25% khối lượng của cây, tùy thuộc vào loài cây, độ tuổi và điều kiện lập địa. Đường kính thân cây càng lớn, khối lượng vỏ càng nhiều. Vỏ cây chỉ tự tách ra khỏi cây khi bị mục hoặc dưới các tác động cơ học khác, còn thì vỏ bám chắc lấy thân cây từ khi bắt đầu mọc tới khi khai thác hoặc khi cây tự chết, vì vậy vỏ cây là một phần sinh khối không cần thiết, là “tạp chất” cần phải loại bỏ khi sử dụng gỗ làm nguyên liệu cho sản xuất bột giấy, chế biến thành các sản phẩm hữu ích khác, hay cả khi sử dụng gỗ cho sản xuất đồ gỗ.
Ở Việt Nam, gỗ làm nguyên liệu sản
xuất giấy là gỗ cây lá rộng (chủ yếu là Keo và Bạch đàn), có độ tuổi 4-6 năm,
đường kính thân cây tầm 1,3 m trung bình 20-30 cm.
Khác với cây gỗ vùng ôn đới, cây
nguyên liệu giấy vùng nhiệt đới thường không đồng đều về kích thước, tức có sự
khác biệt khá lớn về đường kính giữa phần gốc và phần ngọn, do cây phát triển
nhanh. Đồng thời cây thường cong, do mưa gió nhiều. Hiện nay, tiêu chuẩn kỹ thuật
nội bộ cho phép ngành chế biến dăm mảnh nguyên liệu giấy sử dụng cả phần ngọn của
cây có đường kính xấp xỉ 10 cm, thậm chí nhỏ hơn. Với những đặc điểm này, việc
bóc vỏ gỗ gặp nhiều khó khăn, cả theo phương pháp thủ công, bán thủ công hay bằng
các thiết bị bóc vỏ gỗ ở quy mô công nghiệp.
Về mặt công nghệ, bóc vỏ gỗ không
triệt để gây ảnh hưởng đến một loạt yếu tố của quá trình vận hành và chất lượng
bột giấy, như tăng tiêu hao kiềm khi nấu bột giấy, tăng độ bụi, giảm độ bền cơ
học của bột giấy và giấy, kết bám bề mặt thiết bị, lưới xeo, ... Về tổng thể, sự
có mặt của vỏ cây giảm hiệu quả của quá trình sản xuất, trong nhiều trường hợp
còn gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Vì vậy, bóc vỏ triệt để là một trong những vấn
đề luôn được quan tâm của quá trình kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào.
Hiện nay có 03 phương pháp bóc vỏ
gỗ nguyên liệu giấy đang được áp dụng: bóc vỏ thủ công tại nơi khai thác, bằng
các loại dao tách; bóc vỏ bằng máy bóc vỏ có cơ cấu trục dao quay theo nguyên
lý cạo dập nhiều lần, được lắp đặt tại các doanh nghiệp chế biến dăm mảnh
nguyên liệu giấy; bóc vỏ bằng các thiết bị bóc vỏ kiểu thùng quay năng suất cao
theo nguyên lý va đập, chà xát để bóc tách vỏ, được lắp đặt tại các nhà máy sản
xuất bột giấy. Trong tất cả các trường hợp, bóc vỏ gỗ triệt để vẫn gặp nhiều
khó khăn, nhất là với sản xuất yêu cầu năng suất cao. Vì vậy áp dụng các giải
pháp và ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả quá trình bóc vỏ gỗ, là vấn đề
thời sự của ngành công nghiệp giấy và chế biến lâm sản, nhất là trong bối cảnh
gia tăng xuất khẩu dăm mảnh nguyên liệu giấy. Việc nâng cao chất lượng nguyên
liệu sẽ nâng cao được giá trị và tính cạnh tranh của lĩnh vực trông rừng, sử dụng
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Để giải quyết vấn đề nêu trên,
song song với các giải pháp đồng bộ như chọn tạo giống cây nguyên liệu, để nâng
cao chất lượng gỗ nguyên liệu, ứng dụng các chế phẩm vi sinh vật và enzyme
trong quá trình chế biến, cụ thể là bóc vỏ gỗ, là giải pháp kỹ thuật tân tiến
và hiệu quả. Giải pháp này dựa trên những đặc điểm cấu tạo của vỏ cây: tầng
phát của gỗ có hàm lượng các chất pectin và protein cao, hàm lượng lignin thấp
hoặc không chứa lignin, các mô cambi bao gồm vách tế bào sơ sinh và chất nội
bào, có cấu tạo không bền vững dễ bị tác động cơ học. Tầng phát sinh có thể chứa
carbohydrate, như cellulose, các chất pectin, xyloglucane, arabinogalactane,
hay glucoprotein. Những hợp chất này có thể dễ dàng bị phân hủy dưới tác dụng của
các vi sinh vật và enzyme, nhờ đó mà vỏ cây có thể dễ dàng được bóc tách sau
khi xử lý với các chế phẩm vi sinh vật hoặc enzyme.
Trên thế giới, một loạt enzyme đã
được nghiên cứu ứng dụng cho phân hủy vỏ cây các loài khác nhau, là các enzyme
phân hủy pectin, hemicellulose, cellulose hay protein, như pectinase,
hemicellulase, cellulase hay protease. Chúng đều có khả năng làm suy yếu liên kết
giữa gỗ và vỏ cây và/hoặc phân hủy các polyme của tầng phát sinh. Hiện nay
có nhiều chế phẩm thương mại có sẵn, phù
hợp cho công dụng này. Tuy nhiên để xác định được hiệu quả cần có các nghiên cứu
ứng dụng thử nghiệm cụ thể đối với từng loại gỗ.
Từ đầu thập kỷ 1990, các nhà
nghiên cứu Phần Lan là Ratto và Viikari đã nghiên cứu sử dụng enzyme cho bóc vỏ
gỗ, cụ thể cho quá trình thủy phân tầng phát sinh của gỗ và libe bằng chủng nấm
Aspergillus niger. Quan sát tác dụng của loại polygalacturonase này tới tiêu
hao điện năng cho quá trình bóc vỏ cho thấy, đã giảm được tới 20% điện năng
tiêu thụ. Theo phương pháp này, gỗ trục được ngâm trong dung dịch enzyme và
enzyme đã khuếch tán chủ yếu theo tiếp tuyến giữa gỗ và vỏ cây. Ba loại enzyme
nữa cũng đã được sử dụng, là pectinase thương phẩm (Pectinex Ultra SPL của hãng
Novozymes) và hai chế phẩm polygalacturonase khác được phân lập tuyển chọn
trong phòng thí nghiệm từ nấm Aspergillus niger, xylanase thương phẩm là
Pentosanase MKC. Với mức dùng thích hợp, các enzyme pectinase,
polygalacturonase hay hemicellulase đã giúp bóc vỏ triệt để hơn, đồng thời giảm
tiêu hao điện năng cho bóc vỏ gỗ, như trường hợp tốt nhất đạt xấp xỉ 50% điện
năng tiêu thụ khi sử dụng chế phẩm Pectinex. Trong số các loại enzyme, thì pectinase thể hiện phổ hoạt lực khá khác nhau
đối với các thành phần của cambi của các loại gỗ khác nhau. Sử dụng xylanase
cho phép giảm khoảng 18% tiêu thụ năng lượng cho bóc vỏ. Vì vậy, nghiên cứu ứng
dụng từng loại chế phẩm enzyme hay vi sinh vật cho từng loại gỗ là cần thiết.
Như vậy, phương pháp bóc vỏ sử dụng
enzyme là một cách tiếp cận mới và hấp dẫn. Trong thời đại ngày nay, khi mà vấn
đề tiết kiệm năng lượng trong sản xuất và sinh hoạt đang là vấn đề nóng bỏng và
bức thiết, ưu điểm nổi bật của phương pháp này là giảm được tiêu hao điện năng,
có thể giảm được tới 80% khi tiền xử lý gỗ bằng pectinase. Sử dụng enzyme cũng
tiết kiệm được đáng kể tiêu hao nguyên vật liêu khác cho sản xuất bột giấy .
Enzyme không chỉ có thể nâng cao năng suất bóc vỏ hiện có, tiết kiệm được vốn đầu tư, mà còn
thúc đẩy được quá trình khi gỗ khó bóc vỏ. Trong trường hợp đó, nên tiến hành
bóc vỏ sơ bộ trước, sau đó xử lý bằng enzyme rồi lại tiến hành tiếp tục, như vậy
phần lớn vỏ cây đã bị loại bỏ và tạo điều kiện cho enzyme thẩm thấu tốt hơn vào
trong vỏ. Trong thực tế, có thể tiến hành một cách thuận lợi khi phun lên gỗ đã
bóc vỏ và lặp đi lặp lại quá trình bóc vỏ bằng phương pháp cơ học truyền thống.
Tuy vậy, có thể nhìn thấy ngay những
hạn chế và triển vọng của ứng dụng enzyme hay vi sinh vật cho bóc vỏ gỗ. Về cấu
tạo, vỏ cây là một dạng cơ chất khó phân hủy đối với enzyme, nhất là khi còn
nguyên vẹn. Khi xử lý, enzyme rất khó thẩm thấu vào bên trong để phân hủy các
thành phần của vỏ. Mặc dù hạn chế này phần nào có thể khắc phục bằng phương
pháp bóc vỏ sơ bộ hay tác động cơ học khác để cải thiện quá trình, nhưng để đạt
hiệu quả kinh tế lẫn kỹ thuật, đây vẫn là rào cản lớn cần được lưu ý. Vì vậy cần
nghiên cứu các chế phẩm enzyme có tác dụng cùng lúc đối với nhiều thành phần của
tầng phát sinh và tối ưu hóa thành phần của hỗn hợp enzyme đối với từng loại gỗ
có tầng phát sinh khác nhau.
Tóm lược theo TS. Dương
Xuân Diêu - Vụ Khoa học và Công nghệ Bộ Công Thương