Kim ngạch nhập khẩu
giảm 17,1%
Nguyên nhân được Bộ
Công Thương phân tích là nhập khẩu giảm mạnh hơn so với xuất khẩu.
Theo báo cáo của Bộ
Công Thương, 7 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 179,5 tỷ
USD, giảm 17,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt
64,1 tỷ USD, giảm 16,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 115,4 tỷ USD, giảm
17,7%.
Nguyên nhân nhập khẩu
giảm là do những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu nên kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa, nhất là nguyên phụ liệu của Việt Nam từ hầu hết các thị trường trong
7 tháng qua đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị
trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 58,59 tỷ USD, giảm
18,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc ước đạt 28,52 tỷ USD, giảm
25,3%; thị trường ASEAN đạt 23,56 tỷ USD, giảm 16,6%; Nhật Bản đạt 12,11 tỷ USD,
giảm 12,6%; thị trường EU đạt 8,56 tỷ USD, giảm 5,9%; Hoa Kỳ đạt 8,1 tỷ USD, giảm
6,4%.
Kim ngạch nhập khẩu
nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu giảm 12,8% so với cùng kỳ năm trước, ước đạt
10,94 tỷ USD. Những mặt hàng giảm mạnh gồm: Phế liệu sắt thép (giảm 25,9%), đá
quý, kim loại quý và sản phẩm (giảm 28%), linh kiện phụ tùng ô tô dưới 9 chỗ
(giảm 28%), hàng điện gia dụng và linh kiện (giảm 19%)... Tuy nhiên, kim ngạch
tăng ở một số ít mặt hàng gồm rau quả (tăng 2,6%), ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ
(tăng 18,5%).
Chiều ngược lại,
trong 7 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 194,73 tỷ USD, giảm
10,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 51,5 tỷ
USD, giảm 10,2%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) đạt 143,23 tỷ USD, giảm 10,8%, chiếm 73,6%.
Đánh giá chung về
nguyên nhân của sự suy giảm trong sản xuất công nghiệp và hoạt động xuất nhập
khẩu trong 7 tháng qua, Bộ Công Thương cho biết, các nền kinh tế lớn là đối tác
xuất khẩu của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU giảm chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông
thường và xa xỉ khiến khối lượng đơn đặt hàng giảm, trong khi đó các ngành sản
xuất công nghiệp trong nước chủ yếu hướng vào xuất khẩu, phụ thuộc lớn vào thị
trường toàn cầu do sản lượng sản xuất trong nước vượt xa nhu cầu của thị trường
nội địa, đặc biệt là đối với các ngành hàng như dệt may, da - giày, điện tử… chỉ
cung ứng cho nhu cầu nội địa 10% sản lượng, 90% sản lượng còn lại là để xuất khẩu.
Giá hàng hoá xuất khẩu
có xu hướng giảm trong 7 tháng năm 2023, trong đó giá nhiều mặt hàng nông sản
như nhân điều, chè, hạt tiêu, cao su… đều giảm so với cùng kỳ năm ngoái như: hạt
tiêu giảm 28,4%; cao su giảm 20,6%); đặc biệt, giá xuất khẩu một số mặt hàng
công nghiệp chế biến giảm mạnh ở mức hai con số như: dầu thô giảm 25,2%; xăng dầu
các loại giảm 16,9%; Phân bón các loại giảm 36,2%; Chất dẻo nguyên liệu giảm
25,2%; Xơ, sợi dệt các loại giảm 23%; Sắt thép các loại giảm 24,8%...
Việc Trung Quốc mở cửa
trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu cùng chủng loại
của Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp của ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn
do đơn hàng nước ngoài giảm, thị trường trong nước sức mua không lớn, chi phí đầu
vào vẫn ở mức cao, không dễ dàng trong việc tiếp cận tín dụng…
Tiếp
tục đẩy mạnh đàm phán ký kết các FTA mới
Để phát triển thị trường xuất khẩu, Bộ Công Thương cho biết, trong thời gian tới sẽ tiếp tục đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới, trong đó có hoàn tất đưa vào thực thi Hiệp định FTA với Israel, ký kết các hiệp định FTA, Hiệp định thương mại với các đối tác khác còn nhiều tiềm năng (UAE, MERCOSUR...) để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng.
Hỗ trợ doanh nghiệp tận
dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA, trong đó đặc biệt là các Hiệp định
CPTPP, EVFTA, UKVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu, thông qua tuyên truyền về quy tắc
xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, các cơ hội và cách thức tận dụng cơ hội
từ các hiệp định.
Đồng thời, phối hợp với
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đàm phán với Trung Quốc mở cửa thêm thị
trường xuất khẩu cho các mặt hàng rau quả khác của Việt Nam như bưởi da xanh, dừa
tươi, bơ, dứa, vú sữa, chanh, dưa lưới…
Nâng cao hiệu quả và
điều tiết tốt tốc độ thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu
thuộc biên giới giữa Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là đối với các mặt hàng
nông sản, thủy sản có tính chất thời vụ; chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu
chính ngạch.
Ngoài ra, Bộ Công
Thương cũng tăng cường cảnh báo sớm các vụ kiện phòng vệ thương mại; hướng dẫn
doanh nghiệp cách ứng phó với các vụ kiện; kịp thời thông tin cho doanh nghiệp,
Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, quy định mới của thị trường.
Theo Ngọc Linh -
HQO