Theo
số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 1, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc đạt 3,87 tỷ USD.
Nhóm
hàng xuất khẩu lớn nhất là điện thoại và linh kiện với kim ngạch đạt 1,7 tỷ
USD.
Chiều
ngược lại, nhập khẩu hàng hóa của nước ta từ quốc gia láng giềng đạt 7,23 tỷ
USD trong tháng 1.
Hàng
hóa nhập khẩu đa dạng từ sản phẩm, linh kiện điện tử; máy móc, thiết bị, dụng cụ,
phụ tùng; nguyên phụ liệu; hàng tiêu dùng; hàng nông sản…
Với
tổng kim ngạch hơn 11 tỷ USD, Trung Quốc là đối tác thương mại song phương duy
nhất của Việt Nam có quy mô kim ngạch hơn 10 tỷ USD trong tháng đầu năm.
Trước
đó, năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 175,57 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt 57,7 tỷ USD, trong khi nhập khẩu 117,87 tỷ
USD
Trong
quan hệ thương mại, tính bổ sung lẫn nhau trong cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa
giữa hai nước vẫn rất lớn. Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc các sản phẩm nông
sản nhiệt đới, thủy sản, dệt may, điện thoại, máy tính, sản phẩm điện tử, đồng
thời nhập khẩu từ Trung Quốc các mặt hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất, nông sản
ôn đới...
Hiện,
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với một số mặt hàng nông sản
của Việt Nam (thị trường xuất khẩu lớn nhất đối với nhóm hàng rau quả, sắn và
các sản phẩm từ sắn, cao su; thị trường xuất khẩu lớn thứ ba với nhóm hàng thủy
sản, chỉ sau Mỹ, Nhật Bản).
Với
vị trí địa lý gần gũi, nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Trung Quốc có sức cạnh
tranh mạnh mẽ, góp phần tích cực vào tăng trưởng của hàng hóa xuất khẩu Việt
Nam.
Ngày
08/01 vừa qua, Trung Quốc ra thông báo mở các cửa khẩu biên giới để đẩy mạnh
thương mại hàng hóa, trong đó có thương mại nông sản, đây là tin mừng cho các
doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc.
Bên
cạnh đó, thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện triển
khai truyền thông mạnh mẽ các quy định theo Lệnh 248 và 249 của Hải quan Trung
Quốc về yêu cầu Trung Quốc đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ, doanh nghiệp muốn
xuất khẩu chính ngạch nông sản sang thị trường này phải tuân thủ: Mã số vùng trồng,
cơ sở đóng gói phải đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng được
yêu cầu truy xuất nguồn gốc, xuất xứ, đăng ký doanh nghiệp xuất khẩu. Các mã số
vùng trồng, cơ sở đóng gói, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ do phía Trung Quốc phê
duyệt, cấp mã số.
Đến
nay, Hải quan Trung Quốc đã cấp 435 mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu theo Lệnh
248. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cấp hơn 2.000 mã số vùng trồng
và 1.438 mã số cơ sở đóng gói sản phẩm nông sản. Để đảm bảo việc xuất khẩu nông
sản, thủy sản, lâm sản phát triển bền vững, thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã triển khai rất mạnh xây dựng vùng nguyên liệu đảm bảo
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm để phục vụ xuất khẩu, trong đó có xuất khẩu
sang thị trường Trung Quốc.
Để
gia tăng xuất khẩu sang Trung Quốc, dần tiến tới cân bằng cán cân thương mại, Bộ
Công Thương khuyến cáo đối với công tác tổ chức sản xuất, các cơ quan quản lý
nhà nước, chính quyền địa phương của Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển
ngành, xây dựng thương hiệu; xây dựng vùng sản xuất, nuôi trồng chuyên canh tập
trung, quy mô lớn; định hướng sản xuất, nuôi trồng theo tín hiệu thị trường.
Trong quản lý chất lượng, tăng cường quản lý giám sát chất lượng hàng xuất khẩu
từ nuôi trồng đến gia công; tăng cường tập huấn và nhân rộng mô hình sản xuất
theo tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP,...
Để
có thể tháo gỡ các rào cản kỹ thuật, cần tận dụng hiệu quả cơ chế hợp tác giữa
hai nước. Đồng thời, cần xây dựng lộ trình, kế hoạch mở cửa thị trường cho mặt
hàng xuất khẩu, đánh giá kỹ năng lực sản xuất trong nước và nhu cầu của thị trường.
Theo Lan Phương - BCT