Nhóm liên ngành (IAG) của Philippines mới đây đã ban hành thông tư 001-2025 hướng dẫn thực hiện điều chỉnh thuế nhập khẩu gạo theo quy định tại Nghị định 105 năm 2025 do Tổng thống Philippines ký ban hành ngày 7-11-2025. Vậy, việc tính thuế nhập khẩu của Philippines sẽ được thực hiện ra sao?
Ban hành
khung giá tính thuế, lấy gạo Việt làm tham chiếu
Hướng dẫn tính thuế gạo nhập khẩu của Philippines đã quyết định chọn gạo Việt Nam làm tham chiếu để tính toán. Theo đó, bình quân giá gạo 5% tấm (giá FOB) trong tháng cuối cùng của quí, do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) công bố, sẽ được sử dụng làm cơ sở để “điều chỉnh” tăng hoặc giảm thuế.
Trên cơ sở
này, IAG đưa ra các ngưỡng giá xuất khẩu khác nhau để áp thuế và được thực hiện
ở quí tiếp theo, sau khi so sánh với giá bình quân trong tháng cuối cùng của
quí trước, mà không cần ban hành các quyết định hành chính riêng lẻ.
Cụ thể,
IAG đưa ra nhiều ngưỡng giá để tính thuế nhập khẩu gạo, trong đó, với ngưỡng
giá cao, từ 368 đô la Mỹ/tấn trở lên, thuế được áp dụng ở mức 15% (như mức hiện
nay). Ở ngưỡng thứ hai, khi giá giảm xuống vùng 350-367 đô la Mỹ/tấn, thuế áp dụng
là 20%. Ngưỡng thứ ba, khi giá ở mức 316-331 đô la Mỹ/tấn, thuế được áp dụng là
30%.
Với ngưỡng
giá giảm sâu, từ 315 đô la Mỹ/tấn trở xuống, thuế nhập khẩu gạo sẽ được nâng
lên mức 35%, đây cũng là mức trần tối đa. Ngược lại, khi giá phục hồi lên vùng
332–349 đô la Mỹ/tấn, thuế sẽ được áp dụng ở mức 25%.
Với các
ngưỡng giá tính thuế nêu trên, có thể thấy chính sách của Philippines lần này
thiết kế một khung giá tính thuế cố định, nhưng kết quả lại linh hoạt theo giá
FOB gạo 5% tấm của Việt Nam do FAO công bố. Điều này đồng nghĩa, gạo thế giới
bán vào Philippines có giá càng cao thì thuế càng thấp và ngược lại, trong đó,
thuế cao nhất là 35% và thấp nhất là 15%.

Bán giá FOB thấp, nhưng giá sau thuế lại ở mức cao nên việc bán gạo giá
rẻ chưa chắc đã có lợi.
Chiến lược
giá của gạo Việt Nam gặp khó?
Với chính
sách thuế của Philippines như trên, rõ ràng theo logic, Việt Nam khó có thể tiếp
tục bán gạo theo phương thức đặt giá thấp để giành ưu thế về sản lượng.
Để làm rõ
luận điểm này, cần nhìn từ phía Philippines khi các nhà nhập khẩu gạo của quốc
gia này sẽ căn cứ vào “giá sau thuế”, chứ không phải “giá FOB”, để tính toán lợi
ích.
Vậy “giá
sau thuế” sẽ như thế nào khi căn cứ vào các ngưỡng giá mà Philippines đưa ra và
mức thuế tương ứng?
Với mức
giá 368 đô la Mỹ/tấn và thuế suất 15%, giá sau thuế là 423,2 đô la Mỹ/tấn; mức
giá 350 đô la Mỹ/tấn với thuế suất 20% cho giá sau thuế 420 đô la Mỹ/tấn; giá
332 đô la Mỹ/tấn với thuế suất 25% cho giá sau thuế 415 đô la Mỹ/tấn; giá 316
đô la Mỹ/tấn với thuế suất 30% cho giá sau thuế 411 đô la Mỹ/tấn. Trong khi đó,
với mức giá 315 đô la Mỹ/tấn và thuế suất 35%, giá sau thuế lên tới 425,25 đô
la Mỹ/tấn.
Kết quả giá sau thuế như trên về logic có thể thấy doanh nghiệp Philippines sẽ lựa chọn “vùng giá” không quá cao cũng không quá thấp, nhằm đảm bảo mức “giá sau thuế” mang lại lợi ích lớn nhất. Đây cũng chính là ý đồ trong thiết kế chính sách thuế của chính quyền Philippines, đó là tiếp cận nguồn lương thực ở vùng giá hợp lý.
Chính sách
này cho thấy Philippines muốn đạt đồng thời nhiều mục tiêu, bao gồm không để gạo
giá rẻ nhập khẩu ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân sản xuất lúa trong nước,
nhưng cũng không để gạo giá cao tác động tiêu cực đến tiêu dùng nội địa. Đồng
thời, Philippines vẫn muốn duy trì quan hệ nhập khẩu với các nước, trong bối cảnh
khả năng tự cung tự cấp chưa thể đáp ứng.
Với một cơ
chế thuế biến thiên như vậy, Việt Nam khó có thể tiếp tục cạnh tranh bằng cách
hạ giá gạo xuất khẩu.
Thực tế cho thấy, khi giá FOB rơi vào ngưỡng thấp nhất (từ 315 đô la Mỹ/tấn), thuế nhập khẩu lại ở mức cao, khiến giá sau thuế thậm chí cao hơn so với các ngưỡng giá cao hơn nhưng thuế thấp hơn.

Philippines không muốn Việt Nam bán gạo giá rẻ?
Từ vấn đề
này, Việt Nam cần chuyển hướng từ chiến lược “giá rẻ- sản lượng lớn” sang giữ ổn
định giá FOB, nâng cao chất lượng và tập trung vào các phân khúc gạo có giá trị
cao hơn- vốn là thế mạnh và cũng là nhóm sản phẩm được Philippines ưa chuộng thời
gian qua.
Đồng thời,
việc điều tiết nhịp độ xuất khẩu, cũng như có chính sách quản lý nguồn lúa, gạo
nhập khẩu, nhất là từ Campuchia và Ấn Độ, cần được tính toán để bảo vệ lợi ích
của các bên liên quan trong chuỗi ngành hàng lúa gạo Việt Nam, đặc biệt là lợi
ích của người nông dân...
KTSG
