Mục tiêu của Quy hoạch đến năm 2030 đẩy
nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển, sắp xếp, phân bố hệ
thống đô thị và nông thôn thống nhất, hiệu quả, toàn diện, có kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại phù hợp với điều kiện phát triển, có môi trường sống lành mạnh, có
khả năng chống chịu, thích ứng nước biển dâng, biến đổi khí hậu, thân thiện môi
trường và giảm phát thải.
Phát triển bền vững hệ thống đô thị theo mạng
lưới, hình thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực có kiến trúc hiện đại,
xanh, bản sắc. Phát triển các đô thị là "trung tâm" chính trị, hành
chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ, đầu mối giao thông, thu
hút đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, làm động lực phát triển kinh tế
các vùng đô thị tạo hiệu ứng "tích tụ", "kết nối" và
"liên kết" chặt chẽ với nông thôn tại các vùng trên địa bàn cả nước;
tăng cường hợp tác quốc tế. Chất lượng sống tại các đô thị ở mức cao.
Phát triển nông thôn toàn diện, bền vững gắn
với phát triển đô thị, đô thị hóa, có cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội đồng bộ và
tiệm cận với khu vực đô thị; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của từng
vùng miền; xây dựng nông thôn xanh, sạch, đẹp. Phát triển kinh tế, xã hội nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái có hiệu quả
cao, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.
Xây dựng được ít nhất 05 đô thị đạt tầm cỡ
quốc tế
Đến 2050, hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản sắc, xanh, hiện đại, thông minh; có vai trò, vị thế xứng đáng trong mạng lưới đô thị châu Á - Thái Bình Dương, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế. Xây dựng được ít nhất 05 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế. Cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế xanh, kinh tế số chiếm tỷ trọng lớn.
Nông thôn có môi trường sống kết nối chặt
chẽ, hài hòa với đô thị, văn minh, xanh, sạch, đẹp giàu bản sắc văn hóa dân tộc
với điều kiện sống, thu nhập dân cư nông thôn tiệm cận với đô thị.
Các chỉ tiêu phát triển đô thị, nông thôn
thời kỳ đến năm 2030
Hệ thống đô thị: Tỷ lệ đô thị hoá năm 2030 đạt trên 50%;
năm 2050 đạt 70%; số lượng đô thị toàn quốc khoảng 1.000 - 1.200 đô thị; hình
thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế,
giáo dục và đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị
thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN; kinh tế khu vực đô thị đóng góp vào GDP cả nước
khoảng 85%; xây dựng được mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và
cấp vùng kết nối quốc tế và 03 - 05 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm
khu vực và quốc tế vào năm 2030.
Hệ thống nông thôn: Cả nước có ít nhất 90% số xã đạt chuẩn
nông thôn mới, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; phấn đấu cả
nước có khoảng 70% số huyện, thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh đạt chuẩn
nông thôn mới, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; trong đó 35% số huyện
đạt chuẩn được công nhận là huyện nông thôn mới nâng cao, huyện nông thôn mới
kiểu mẫu; phấn đấu 100% huyện có đô thị.
Phấn đấu 100% đơn vị hành chính cấp
tỉnh có đủ 3 loại hình thiết chế văn hóa, gồm: Trung tâm Văn hóa hoặc
Trung tâm Văn hóa - Nghệ thuật, bảo tàng, thư viện; 100% đơn vị hành
chính cấp huyện, cấp xã có Trung tâm Văn hóa - Thể thao...
Định hướng phát triển chung
Phát triển hệ thống đô thị, nông thôn dựa
trên đặc điểm lãnh thổ tự nhiên trên đất liền, biển, hải đảo; đặc điểm lịch sử,
văn hóa, định cư và hiện trạng phân bố dân cư. Nâng cao chất lượng phát triển
đô thị, nông thôn về kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng, nhà ở và môi trường sống
của người dân.
Phát triển đô thị, nông thôn đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Lựa chọn các đô thị có lợi thế đặc biệt để xây dựng thành trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ... có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Ưu tiên phát triển các đô thị gắn với các hành lang kinh tế thành các đô thị trung tâm phù hợp với chức năng của từng vùng, thúc đẩy lan tỏa phát triển.
Phát triển 2 thành phố lớn trở thành đô thị
năng động, sáng tạo
Phát triển thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh và các thành phố khác trực thuộc trung ương trở thành các đô thị năng
động, sáng tạo, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị, có vai
trò quan trọng trong mạng lưới đô thị của khu vực Đông Nam Á và châu Á. Quy hoạch
đô thị lớn gắn với giao thông công cộng (TOD), chú trọng khai thác không gian
ngầm, phát triển các đô thị vệ tinh giảm tải cho đô thị trung tâm.
Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo mạng
lưới; phân bố hợp lý, đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng; dựa trên định
hướng khung hạ tầng giao thông quốc gia, liên kết ngành lĩnh vực, đẩy nhanh tốc
độ phát triển đô thị tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội
nhanh, bền vững. Phát triển đô thị vừa và nhỏ trong mối quan hệ chặt chẽ, chia
sẻ chức năng với các đô thị lớn, giảm dần khoảng cách phát triển giữa các đô thị.
Chú trọng phát triển các đô thị nhỏ, vùng ven đô để hỗ trợ phát triển nông thôn
thông qua các mối liên kết đô thị, nông thôn. Phát triển các mô hình đô thị đặc
thù như đô thị chuyên ngành là trung tâm quốc gia hoặc cấp vùng về văn hoá, di
sản, du lịch, đại học, sáng tạo, khoa học, kinh tế cửa khẩu; đô thị biên giới,
biển đảo.
Phát triển đô thị có chức năng tổng hợp
theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu; kết hợp
phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Hình thành mạng lưới đô thị thông minh kết
nối với khu vực và thế giới. Phát triển hệ thống đô thị ven biển và hải đảo
theo hướng bền vững, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên. Chú trọng phát triển đô thị
trên cơ sở bảo tồn, phát huy các yếu tố di tích lịch sử, di sản văn hóa. Phát
triển mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn
và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển công nghiệp
văn hóa. Đảm bảo tính đồng bộ, kết nối, chia sẻ của mạng lưới cơ sở văn hóa, thể
thao trên từng địa bàn đô thị, nông thôn.
Phát triển mạng lưới khu dân cư nông thôn
là hạt nhân quan trọng của khu vực nông thôn, được quy hoạch gắn với bảo vệ tài
nguyên tự nhiên, văn hóa truyền thống; phù hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp;
đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước...
8 tỉnh định hướng trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương
Theo quy hoạch, có 5 đô thị trực thuộc Trung ương gồm: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (dự kiến đến năm 2030 là đô thị loại đặc biệt), Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng (dự kiến đến năm 2030 là đô thị loại I).
8 tỉnh định hướng trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương gồm: Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Quảng Ninh, Ninh Bình, Hải Dương, Bình Dương (dự kiến đến năm 2030 là đô thị loại
I).
Quy hoạch ban hành Danh mục 42 đô thị loại
I, trong đó Vùng đồng bằng sông Hồng có 11 đô thị, Vùng Trung du và miền núi
phía Bắc có 5 đô thị, Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có 7 đô thị,
Vùng Tây Nguyên có 3 đô thị, Vùng Đông Nam Bộ có 5 đô thị, Vùng đồng bằng sông
Cửu Long có 11 đô thị.
Có 50 đô thị loại II, trong đó Vùng đồng bằng
sông Hồng có 10 đô thị, Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 11 đô thị, Vùng Bắc
Trung Bộ và duyên hải miền Trung có 11 đô thị, Vùng Tây Nguyên có 3 đô thị,
Vùng Đông Nam Bộ có 8 đô thị, Vùng đồng bằng sông Cửu Long có 7 đô thị.
Theo BCP