Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ
tại Văn bản số 97/VPCP-CN ngày 05/01/2022 của Văn phòng Chính phủ về việc giao
Bộ Công Thương nghiên cứu tiếp thu ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (văn bản số
6501/BKHĐT-KTN ngày 27/10/2021), Bộ Tài nguyên và Môi trường (văn bản số
6152/BTNMT-ĐCKS ngày 11/10/2021) đề xuất xây dựng Chiến lược phát triển ngành
thép, sau khi tổng hợp, Bộ Công Thương đã chính thức có báo cáo Thủ tướng Chính
phủ.
Thực trạng
phát triển ngành Thép Việt Nam
Theo đó, về năng lực cạnh tranh của ngành
thép, báo cáo cho biết: Trong những năm gần đây, ngành thép đã có sự phát triển
mạnh mẽ về năng lực cũng như công nghệ. Một số nhà máy thép có công suất lớn,
chất lượng thép cao được đầu tư đi vào hoạt động như Khu Liên hợp Gang thép Hòa
Phát Dung Quất, Công ty CP Gang thép Nghi Sơn, Khu liên hợp Gang thép Hưng Nghiệp
Formosa Hà Tĩnh… Tính đến năm 2021, năng lực sản xuất phôi thép của các doanh
nghiệp trong nước là 27 triệu tấn/năm, trong đó thép cuộn cán nóng (HRC) là 7-8
triệu tấn/năm.
Với thép xây dựng, năng lực sản xuất trong nước
khoảng 14 triệu tấn sẽ đảm bảo 100% cho nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như
đáp ứng được một phần nhu cầu xuất khẩu. Trong đó, có 42% sản xuất là được sử dụng
từ phế liệu thép nhập khẩu; có 58% sản xuất từ lò cao, sử dụng nguyên liệu là
quặng sắt. Hay như thép phục vụ ngành cơ khí, chế tạo, Việt Nam cũng đã sản xuất
và đáp ứng được một phần thép cuộn cán nóng HRC (khoảng 8 triệu tấn/năm).
Còn đối với các loại thép hợp kim, Việt Nam
chưa sản xuất được các loại thép đặc biệt.
Tuy nhiên, bên cạnh các nhà máy xây dựng mới
với công suất lớn như Khu liên hợp Gang thép Hòa Phát Dung Quất, Khu liên hợp
Gang thép Hưng Nghiệp Formosa, thép Nghi Sơn… thì các nhà máy sản xuất phôi
thép còn lại chủ yếu có công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, năng lực sản xuất thép
còn nhiều hạn chế. Các sản phẩm thép sản xuất trong nước chưa thể cung cấp đủ
nhu cầu thép cho toàn bộ nền kinh tế.
Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam
được Bộ Công Thương nhìn nhận là khá thấp khi phần lớn các nguyên liệu đầu vào
để sản xuất thép phải nhập khẩu. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại nhà máy có công suất
nhỏ, thiết bị lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường.
Bên cạnh đó, ngành thép của Việt Nam cơ bản
phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài như: quặng sắt, thép phế
liệu, than mỡ luyện cốc, điện cực graphite… nên khi giá các nguyên liệu đầu vào
biến động sẽ làm giá thép thành phẩm trong nước cũng phải điều chỉnh theo thị
trường thế giới.
Bộ Công Thương dự báo, trong năm 2022, Việt Nam phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như: quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn, thép phế khoảng 6-6,5 triệu tấn cho các lò điện, than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite khoảng 10.000 tấn… và giá quặng sắt, thép phế, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc… vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.
Về lâu dài, để đảm bảo nhu cầu thép cuộn cán
nóng HRC và các loại thép hợp kim, thép chất lượng cao trong nước cần tiếp tục
thu hút và đầu tư một số Nhà máy liên hợp sản xuất thép lớn để phục vụ nhu cầu
nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào thép nhập khẩu.
Cần có chính
sách đặc thù hỗ trợ ngành thép
Theo báo cáo, ngành thép có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; là ngành công nghiệp nền tảng, vật liệu đầu vào cho các ngành
kinh tế quan trọng của đất nước như cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ... Mặt
khác, phát triển công nghiệp sản xuất thép lớn mạnh cũng là tạo nền tảng vững
chắc và phát triển thị trường cho các ngành chế biến chế tạo, xây dựng, cơ
khí... góp phần tạo nguồn cung ứng ổn định và nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt
động của các ngành công nghiệp.
Ngành thép cũng đóng góp quan trọng cho quá
trình chuyển dịch, đô thị hóa đất nước, tác động nhiều mặt đến sự phát triển
kinh tế- xã hội. Với mức tiêu thụ thép trên bình quân đầu người của Việt Nam
(khoảng 240kg/1 người/năm) còn rất thấp so với các nước trong khu vực như
Malaysia, Trung Quốc, dư địa và tiềm năng phát triển của ngành thép Việt Nam trong
thời gian tới là rất lớn. Mặc dù ngành thép có vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhưng Bộ Công Thương cho rằng, tại thời điểm hiện tại, Việt Nam không có
chính sách đặc thù, riêng biệt để thúc đẩy, cũng như định hướng để phát triển ngành
thép.
"Tự chủ về sản xuất thép trong nước là
yêu cầu tất yếu của việc tự chủ nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu
dùng của người dân, cũng như quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất
quốc gia. Do đó, để ngành thép phát triển bền vững và ổn định, Nhà nước cần phải
xây dựng chính sách đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp
thép tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững",
báo cáo của Bộ Công Thương nêu rõ.
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Việt Nam cần có các định hướng chính sách để phát triển mạnh
ngành luyện kim, vật liệu, đặc biệt là các loại thép chế biến chế tạo.
Thứ nhất với chủng loại HRC: trong giai đoạn
tới cần phát triển đầu tư thêm các dự án sản xuất lớn. Đây là loại thép chiến tỷ
trọng lớn trong ngành chế biến chế tạo.
Thứ hai, với thép hợp kim và đặc biệt phục vụ
ngành cơ khí, Việt Nam cần xây dựng các tổ hợp luyện kim có quy mô lớn trong đó
tập trung vào sản xuất các loại thép chế biến chế tạo có trình độ công nghệ có
dung lượng thị trường lớn để bước đầu làm chủ công nghệ sản xuất các loại thép
chế biến chế tạo cơ bản.
Báo cáo cũng đề cập tới vấn đề Nhà nước có
các chính sách ưu đãi về đất đai, hạ tầng, về khoa học công nghệ và đào tạo nguồn
nhân lực để khuyến khích, thúc đẩy các dự án thép phát triển nhằm hình thành
phát triển mạnh ngành luyện kim, đáp ứng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Theo dự báo sơ bộ, tổng nhu cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam giai đoạn đến năm 2030 có thể đạt tới 310 tỷ USD. Trong đó, nhu cầu thị trường từ cơ khí phục vụ công trình công nghiệp là 120 tỷ USD; cơ khí phục vụ xây dựng, nông nghiệp, chế biến là 15 tỷ USD; thiết bị tiêu chuẩn là 10 tỷ USD; giao thông đường sắt là 35 tỷ USD; tàu điện ngầm là 10 tỷ USD và ô tô là 120 tỷ USD.
Đây sẽ là thị trường rất lớn cho ngành thép
trong nước, đặc biệt là các loại thép chế tạo, thép hợp kim chất lượng cao phục
vụ các ngành công nghiệp chế tạo, vốn là phân khúc hiện nay Việt Nam chưa tự chủ
được trong sản xuất thép nội địa.
An Nghiệp - CTTĐTBCP