Bộ Y tế
cho biết, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, làm đẹp và chăm sóc cá
nhân là nhu cầu tất yếu của con người và ngày càng trở nên phổ biến hơn, không
phân biệt về giới tính, độ tuổi. Chính vì thế mỹ phẩm đang dần trở thành một
trong những nhu cầu thiết yếu của xã hội. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều
dạng sản phẩm mỹ phẩm với nhiều thương hiệu sản phẩm và xuất xứ khác nhau.
Ngày
02/9/2003, Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định hòa hợp trong quản lý mỹ phẩm
của các nước thành viên Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Hiệp định hòa hợp mỹ phẩm
ASEAN); theo đó, ASEAN quy định: "Sản phẩm mỹ phẩm là một chất hay chế phẩm
được sử dụng để tiếp xúc với những bộ phận bên ngoài cơ thể con người (da, hệ
thống lông tóc, móng tay, móng chân, môi và bên ngoài cơ quan sinh dục) hoặc
răng và niêm mạc miệng với mục đích chính là để làm sạch, làm thơm, thay đổi diện
mạo, hình thức, điều chỉnh mùi cơ thể, giữ cơ thể trong điều kiện tốt".
Thực hiện
Hiệp định hòa hợp mỹ phẩm ASEAN và các quy định của Pháp luật Việt Nam như Luật
Thương mại, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật, Luật Quảng cáo, Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ quy
định về ghi nhãn hàng hóa và các văn bản khác có liên quan, Bộ Y tế đã quy định
quản lý mỹ phẩm trong Thông tư số 06/2011/TT-BYT ngày 25/1/2011. Trong Thông tư
này ngoài các nội dung chung của các văn bản quy phạm pháp luật như phạm vi và
đối tượng áp dụng, giải thích thuật ngữ, Bộ Y tế đã quy định cụ thể các nội
dung như công bố sản phẩm mỹ phẩm (trình tự, cách thức, thủ tục công bố tiếp nhận
số công bố, thời hạn hiệu lực của số tiếp nhận phiếu công bố, thay đổi nội dung
đã công bố), các yêu cầu về Hồ sơ thông tin sản phẩm, yêu cầu về an toàn sản phẩm
mỹ phẩm, ghi nhãn mỹ phẩm, xuất nhập khẩu mỹ phẩm; lấy mẫu và kiểm tra chất lượng
mỹ phẩm, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
sản xuất, buôn bán nhập khẩu mỹ phẩm và quyền của người tiêu dùng.
Bên cạnh
đó, Bộ Y tế cũng ban hành Thông tư số 09/2015/TT-BYT ngày 25/5/2015 quy định về
việc xác nhận nội dung quảng cáo đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt
thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Y tế.
Sau khi Luật
Đầu tư năm 2014 ban hành, đưa ngành nghề "sản xuất mỹ phẩm" vào ngành
nghề kinh doanh có điều kiện thì năm 2016, các quy định về điều kiện sản xuất mỹ
phẩm tại Thông tư số 06/2011/TT-BYT đã được đưa lên Nghị định số 93/2016/NĐ-CP
ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện sản xuất mỹ phẩm. Ngoài ra
trong lĩnh vực mỹ phẩm còn áp dụng Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Thực tế quản
lý mỹ phẩm hiện nay
Thực hiện
Hiệp định hòa hợp mỹ phẩm của ASEAN, Việt Nam đã quy định cơ chế quản lý theo
hướng chuyển đổi từ cơ chế "tiền kiểm" trước đây - "Đăng ký lưu
hành" sang cơ chế "Hậu kiểm" - "Công bố sản phẩm" và
kiểm tra hậu mại. Với cơ chế quản lý này, các doanh nghiệp trong nước chỉ phải
đăng ký kinh doanh (có chức năng kinh doanh mỹ phẩm). Tổ chức, cá nhân chịu
trách nhiệm đưa sản phẩm ra thị trường tiến hành công bố sản phẩm với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với
mỹ phẩm sản xuất trong nước; Bộ Y tế (Cục Quản lý Dược) đối với mỹ phẩm sản xuất
ở nước ngoài) và đưa sản phẩm ra lưu thông trên thị trường. Cơ quan quản lý tiến
hành kiểm tra hậu mại và xử lý, xử phạt tổ chức, cá nhân có vi phạm.
Cơ chế quản
lý này yêu cầu hệ thống cơ quan quản lý và cơ quan thực thi pháp luật phải rất
mạnh đồng thời ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp phải
rất cao.
Sau hơn 10
năm triển khai thực hiện, đến nay Thông tư quy định về quản lý mỹ phẩm có nhiều
nội dung không còn phù hợp như về hồ sơ công bố mỹ phẩm, ghi nhãn, quảng cáo, sản
xuất mỹ phẩm trong nước, các giới hạn kim loại nặng và vi sinh vật trong sản phẩm
mỹ phẩm…. Tuy nhiên khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 ra đời
thì Bộ Y tế không có đủ cơ sở pháp lý để ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung
Thông tư số 06/2011/TT-BYT vì chưa có căn cứ nội dung được giao trong Luật hoặc
Nghị định, nhiều nội dung vướng mắc, bất cập, không phù hợp liên quan đến điều
kiện đầu tư kinh doanh hoặc thủ tục hành chính mà theo quy định của Luật Đầu tư
và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì phải được quy định từ cấp Nghị
định trở lên, Thông tư không được phép quy định những nội dung này.
Thêm vào
đó, việc quản lý đối với các sản phẩm mỹ phẩm sản xuất trong nước được thực hiện
theo quy định của Nghị định số 93/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về điều
kiện sản xuất mỹ phẩm, qua 07 năm triển khai thi hành cũng còn nhiều nội dung
chưa phù hợp và cần sửa đổi, bổ sung để đáp ứng với tình hình thực tiễn. Ví dụ:
Chưa có danh mục kiểm tra đánh giá thực tế tại cơ sở để làm căn cứ thống nhất
trong đánh giá tại tất cả các địa phương trong toàn quốc; chưa có quy định cụ
thể về trình độ, bằng cấp chuyên môn của người phụ trách chuyên môn của cơ sở;
chưa có quy định về việc xử lý, giải quyết trong trường hợp cơ sở sản xuất đề
nghị thay đổi người phụ trách chuyên môn; chưa có quy định hướng dẫn xử lý
trong trường hợp cơ sở sản xuất mỹ phẩm thực hiện việc sản xuất các sản phẩm
không phải mỹ phẩm trên cùng dây chuyền sản xuất mỹ phẩm…
Bộ Y tế đề
nghị xây dựng Nghị định quy định về quản lý mỹ phẩm nhằm kịp thời tháo gỡ các
khó khăn, vướng mắc về chính sách, pháp lý cũng như để giải quyết những vấn đề
phát sinh trong thực tiễn trong bối cảnh thị trường mỹ phẩm Việt Nam ngày một
gia tăng về quy mô, chủng loại mặt hàng và hình thức kinh doanh mới phát sinh
(thương mại điện tử) hướng đến thực hiện mục tiêu cắt giảm và đơn giản hóa các
thủ tục hành chính trong quản lý mỹ phẩm, nâng cao chất lượng mỹ phẩm sản xuất
trong nước nhằm tăng tính cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập đồng thời tăng
tính an toàn của sản phẩm mỹ phẩm lưu thông trên thị trường Việt Nam, tăng khả
năng tiếp cận các sản phẩm mỹ phẩm an toàn chất lượng của người dân.
Theo BCP