Sáng 12/2,
tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội
nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng với chủ đề "Liên kết phát triển - Đổi mới
sáng tạo - Xanh và Bền vững".
Phát biểu
kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ đây là Hội nghị "3
trong 1": Triển lãm thành tựu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và giới
thiệu nông sản đặc trưng của Vùng; công bố Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị; xúc tiến đầu tư Vùng Đồng bằng sông Hồng.
Đây cũng
là hội nghị cuối cùng triển khai các nghị quyết của Bộ Chính trị về 6 vùng
KT-XH trên cả nước, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
là "nhất hô bá ứng, tiền hô hậu ủng,
trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt".
Chính phủ
đang tiếp tục thực hiện các công việc tiếp theo như xây dựng, kiện toàn các hội
đồng vùng và cơ chế hoạt động, cơ chế, chính sách, quy hoạch… để phát triển các
vùng. Thủ tướng nhấn mạnh điều này đòi hỏi Chính phủ, các bộ ngành, địa phương
cùng chung tay làm, khẩn trương, quyết liệt, sát thực tế, khả thi và hiệu quả.
Vùng kinh
tế có nhiều tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội và lợi thế cạnh tranh
Thủ tướng
và các đại biểu đã dành nhiều thời gian phân tích về vị trí, vai trò, tiềm
năng, thế mạnh của Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, chiếm 6,42% diện tích cả nước với khoảng 21.278 km.
Đây là địa
bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường,
quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo; là cửa ngõ phía bắc của đất nước và
ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - thị trường rộng
lớn nhất thế giới; là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế.
Thủ đô Hà
Nội, hạt nhân phát triển vùng, là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc
gia; trung tâm về kinh tế, văn hóa, KHCN; là thủ đô văn hiến, anh hùng có bề
dày phát triển hàng nghìn năm gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Hệ thống
giao thông kết nối đồng bộ với đầy đủ 5 phương thức vận tải (đường bộ, đường sắt,
đường sông, hàng không và cảng biển) kết nối với 4 tuyến hành lang kinh tế liên
vùng và quốc tế, tạo thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ, đặc biệt là
logistics, là điểm trung chuyển hàng hóa cho các tỉnh phía bắc. Trong đó, vùng
biển có diện tích lớn có tiềm năng lớn phát triển các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, thủy sản và dịch vụ.
Đồng bằng
sông Hồng là vùng đất "địa linh nhân kiệt", có bề dày truyền thống lịch
sử, văn hóa phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc với nền Văn hóa sông Hồng,
văn minh lúa nước; có 3 di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới, 5 di sản văn hóa
phi vật thể được UNESCO ghi danh, 52 di tích quốc gia đặc biệt, 77 bảo vật quốc
gia, gần 2.000 di tích quốc gia…
Vùng có
nguồn nhân lực dồi dào với dân số 23,22 triệu người (chiếm 23,65% dân số cả nước);
là trung tâm hàng đầu cả nước về y tế, giáo dục - đào tạo; đội ngũ trí thức giỏi
và lực lượng lao động có chất lượng cao. Người dân yêu quê hương, đất nước;
đoàn kết, anh dũng; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; ham học hỏi và
giàu lòng nhân nghĩa, thủy chung...
Quy mô
kinh tế đứng thứ 2 cả nước
Về thực trạng
phát triển vùng, các đại biểu nhấn mạnh một số kết quả nổi bật như tăng trưởng
kinh tế cao hơn bình quân cả nước, giai đoạn 2005-2020 bình quân đạt 7,94%/năm
(cả nước là 6,36%). Quy mô kinh tế năm 2020 gấp 7,75 lần so năm 2005, chiếm
29,4% GDP cả nước (đứng thứ 2, sau Vùng Đông Nam Bộ); GRDP bình quân đầu người
đạt 103,6 triệu đồng/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước (sau Vùng Đông Nam Bộ
là 141,3 triệu đồng/năm).
Cơ cấu
chuyển dịch tương đối nhanh theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch
vụ (năm 2020 lần lượt là 40,62% và 40,64%); các ngành công nghiệp mũi nhọn phát
triển theo hướng hiện đại, quy mô lớn, ít thâm dụng lao động, hàm lượng công
nghệ cao. Kinh tế biển phát triển khá, đặc biệt Hải Phòng, Quảng Ninh dần trở
thành trung tâm kinh tế biển, dịch vụ cảng biển lớn của cả nước.
Thu ngân
sách tăng nhanh, tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) giai đoạn 2005-2020 chiếm
32,7% (đến năm 2020 chiếm 34,5%) tổng thu NSNN cả nước (sau Vùng Đông Nam Bộ);
vùng có 7/11 địa phương có điều tiết về Trung ương.
Kết cấu hạ
tầng giao thông, vận tải phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại, tốt so với các
vùng trên cả nước, hội tụ đủ 5 phương thức vận tải. Đến năm 2020, toàn vùng có
496 km đường cao tốc, 2.133 km quốc lộ, có mật độ đường cao tốc và quốc lộ cao
nhất cả nước.
Trong đó,
mật độ đường cao tốc là 2,33 km/100 km2 (cả nước trung bình là 0,37 km/100 km2)
và mật độ quốc lộ là 10,1 km/100 km2 (cả nước trung bình là 7,4 km/100 km2).
Phát triển đô thị tăng nhanh, tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2021 đạt trên 41% (đứng
thứ 2/6 vùng kinh tế, sau Đông Nam Bộ).
Thu hút
FDI tăng khá nhanh. Đến năm 2020, đứng thứ 2 trong các vùng kinh tế (chiếm khoảng
31,4% tổng vốn cả nước). Trong đó, Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh luôn thuộc nhóm
10 địa phương có tổng số vốn FDI dẫn đầu cả nước.
Các lĩnh vực
văn hóa - xã hội được quan tâm; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất
và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện. Chương trình xây dựng
nông thôn mới đạt kết quả nổi bật, có 99,2% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, cao
nhất nước. Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, chỉ còn 0,86% năm 2021 theo chuẩn nghèo
đa chiều.
Quốc
phòng, an ninh được giữ vững, bảo vệ vững chắc biên giới, chủ quyền quốc gia. Hợp
tác quốc tế được đẩy mạnh. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được tăng
cường; phòng chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả.
Bên cạnh
những kết quả đạt được, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu cũng phân
tích những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức của Vùng. Theo đó, KT-XH phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
của vùng; các địa phương phát triển không đồng đều, phụ thuộc nhiều vào vốn và
lao động. Các ngành sản xuất với công nghệ hiện đại chiếm tỉ lệ thấp. Cơ cấu
thu NSNN ở một số địa phương chưa bền vững, còn phụ thuộc vào một số ngành nhất
định.
Kết cấu hạ
tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Hạ tầng giao thông thiếu kết nối, chủ yếu đường bộ.
Hạ tầng du lịch còn yếu. Hệ thống đô thị phát triển chưa đồng bộ; thiếu liên kết
giữa các đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp, nông thôn; phát triển nhà ở xã hội
chưa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh một số điểm sáng như liên kết giữa Hải Phòng và
Quảng Ninh, việc hợp tác giữa các địa phương trong vùng nhìn chung chưa chặt chẽ,
hiệu quả thấp.
Nhấn mạnh
tầm quan trọng của hạ tầng chiến lược và vấn đề liên kết, Thủ tướng lấy ví dụ,
trước đây Nam Định có ưu thế phát triển hơn Hà Nam và Ninh Bình, nhưng hiện nay
Hà Nam và Ninh Bình phát triển nhanh hơn, nguyên nhân quan trọng là hạ tầng
giao thông kết nối của hai tỉnh này tốt hơn. Một ví dụ khác, khi Hải Phòng triển
khai các công trình giao thông kết nối với Quảng Ninh và các tỉnh khác thì Hải
Phòng phát triển bứt phá.
Vùng cũng
chưa hình thành các cụm liên kết ngành, các vùng sản xuất nông sản tập trung. Tỉ
lệ lao động nông nghiệp thiếu việc làm còn lớn; đời sống một bộ phận người dân
còn khó khăn. Quản lý đất đai, tài nguyên môi trường còn bất cập; ô nhiễm môi
trường còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Phát triển văn hóa - xã hội, đào tạo
nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng nhu cầu; chất lượng y tế cơ sở còn hạn chế.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên một số địa bàn còn tiềm ẩn nhiều
yếu tố phức tạp…
Thủ tướng
chỉ ra một số nguyên nhân như nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của
Vùng còn chưa đầy đủ; tư duy, thể chế về liên kết chậm đổi mới. Chưa có chính
sách đủ mạnh để tạo đột phá cần thiết cho vùng và một số địa phương trọng điểm.
Chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu liên kết, đồng bộ.
Nguồn lực
đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, cơ cấu chưa hợp lý, còn dàn trải, hiệu quả chưa
cao. Nguồn lực bố trí thực hiện các công trình, dự án có tính liên kết vùng gặp
khó khăn. Phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương còn chưa kịp thời, thiếu chặt
chẽ, hiệu quả chưa cao. Phân cấp, phân quyền cho các địa phương chưa triệt để.
Năng lực của một bộ phận cán bộ có mặt còn hạn chế, tính năng động, sáng tạo
chưa cao…
"Phân
tích như vậy để thấy chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Đội ngũ cán bộ phải
dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì dân, vì nước, vì lợi
ích chung để biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể",
Thủ tướng nhấn mạnh.
Quán triệt
nghiêm túc 5 quan điểm phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng
Thủ tướng đề nghị các bộ ngành và đặc biệt là các địa phương trong vùng nghiêm túc quán triệt 5 quan điểm phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng trong Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị. Trong đó, Thủ tướng nhấn mạnh quan điểm: "Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước".
Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu quán triệt, thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển Vùng theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Trong đó,
cần đặc biệt quan tâm tập trung một số lĩnh vực gồm hạ tầng chiến lược kết nối
(gồm hạ tầng cứng và mềm, hạ tầng giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế…), chuyển
đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường.
Phản ứng
chính sách nhanh, kịp thời, hiệu quả trên cơ sở bám sát thực tiễn, xuất phát từ
thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Quyết tâm phải cao,
nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, lựa chọn ưu tiên phù hợp, triển
khai công việc có trọng tâm, trọng điểm; làm đến đâu chắc đến đó, việc nào dứt
việc đó.
Phát huy mạnh
mẽ các nguồn lực cả công và tư; kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa nguồn lực bên
trong và nguồn lực bên ngoài, trong đó nguồn lực bên trong là cơ bản, lâu dài,
chiến lược, quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, thường
xuyên. Tự lực, tự cường đi lên từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa
biển của mình, không trông chờ, ỷ lại.
Tăng cường
phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp,
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm
soát quyền lực.
Xây dựng hệ
thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất, liêm chính, dân chủ; hành động
thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục
vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Vươn lên
cùng cả nước và vì cả nước
Chương
trình hành động của Chính phủ đã cụ thể hóa Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị, đề
ra các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển vùng, bảo đảm phù hợp với tiềm năng, thế mạnh
của Vùng. Thủ tướng nghị lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương trong Vùng chỉ đạo
nghiên cứu kỹ, xác định rõ lộ trình, bước đi phù hợp, với cách tiếp cận tổng thể,
cách làm, tư duy mới, triển khai các giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả, tổ
chức thực hiện khoa học, hợp lý để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, theo tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng: "Cả nước Vì Đồng bằng sông Hồng; Đồng bằng sông Hồng
vươn lên cùng cả nước và vì cả nước".
Nhấn mạnh 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, Thủ tướng giao các bộ, ngành liên quan và 11 địa phương trong Vùng khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ.
Thứ hai,
tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định pháp lý, cơ chế, chính sách liên kết vùng
đồng bộ, nhất quán, hiệu quả. Làm tốt công tác quy hoạch giai đoạn 2021-2030,
tầm nhìn 2050 để điều phối, quản lý thống nhất, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ,
thống nhất, hiệu quả và phát triển bền vững; sớm hoàn thành Quy hoạch Vùng
trong năm 2023.
Thứ ba, đẩy
mạnh phát triển kinh tế vùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
kinh tế biển. Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ứng
dụng nền tảng số, thân thiện với môi trường. Phân bố không gian công nghiệp hợp
lý theo các hành lang kinh tế; hành lang công nghiệp, gắn với các cảng biển,
các tuyến cao tốc, tuyến quốc lộ kết nối với các vùng lân cận.
Phát triển
nông nghiệp hiệu quả cao, bền vững, sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu;
phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Hình
thành các cụm liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản gắn với doanh nghiệp,
hợp tác xã.
Đa dạng
hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng. Phát triển các ngành dịch vụ, thương
mại theo hướng hiện đại, đa dạng, trọng tâm là phát triển thương mại,
logistics, du lịch, tài chính - ngân hàng, các trung tâm du lịch tầm khu vực và
quốc tế, trên cơ sở phát huy bản sắc độc đáo riêng có; gắn phát triển làng nghề
truyền thống với phát triển du lịch.
Phát triển
mạnh kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ
sinh thái biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát huy vai trò động lực
của các khu kinh tế ven biển gắn với đô thị ven biển, trung tâm du lịch, dịch vụ
logistics.
Thứ tư, về
phát triển hệ thống đô thị và kết cấu hạ tầng KT-XH, Thủ tướng yêu cầu phát triển
hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, bền vững, theo mạng lưới và thích ứng với
biến đổi khí hậu. Hình thành các chuỗi đô thị, chuỗi đô thị thuộc các hành lang
kinh tế gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ logistics.
Ưu tiên
nguồn lực xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng,
liên vùng và quốc tế; phát triển vận tải đa phương thức. Đầu tư, nâng cấp các
tuyến cao tốc, quốc lộ, đường sắt tốc độ cao, đường sắt kết nối nội vùng, cảng
biển; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, nâng cao hiệu quả khai thác đường thủy nội địa,
cảng hàng không, cảng biển quốc tế.
Thứ năm, về phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, Thủ tướng yêu cầu phát triển vùng trở thành trung tâm khoa học - công nghệ (KHCN) gắn với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu của cả nước. Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KHCN. Khuyến khích doanh nghiệp liên kết, đầu tư, phát triển KHCN.
Xây dựng
và phát triển các khu, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo,
khu công nghệ cao. Nghiên cứu xây dựng Trung tâm Khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo
Vùng. Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Vùng. Thủ tướng lưu ý Bộ Khoa học
và Công nghệ khẩn trương bàn giao Khu công nghệ cao Hòa Lạc về thành phố Hà Nội,
đồng thời Bộ phát huy vai trò kiến tạo để đất nước có thêm nhiều khu công nghệ
cao khác.
Tập trung
nâng cao các chỉ số về cải cách hành chính, năng lực cạnh tranh, chuyển đổi số
(PAPI, PAR Index, PCI, ICT…)
Thứ sáu,
Thủ tướng yêu cầu phát huy vai trò là trung tâm hàng đầu cả nước về giáo dục,
đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4. Đẩy mạnh xã hội hóa và tự chủ đại học. Tăng cường nguồn
lực đầu tư cho đào tạo nghề. Phát triển thị trường lao động hiện đại, hội nhập,
hiệu quả; tăng cường kết nối cung cầu lao động nội vùng, liên vùng.
Thứ bảy, về
phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, Thủ tướng nhấn mạnh
"văn hóa soi đường cho quốc dân đi", "văn hóa còn thì dân tộc
còn". Cần phát triển văn hóa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị,
xã hội; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức sáng tạo, khát
vọng phát triển phồn vinh. Phát triển các sản phẩm, dịch vụ gắn với bảo tồn,
phát huy giá trị di sản, bản sắc văn hóa. Chú trọng quy hoạch, đầu tư các thiết
chế văn hóa, công trình văn hóa tiêu biểu. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã
hội; triển khai hiệu quả 3 chương trình mục tiêu quốc gia.
Lãnh đạo bộ, ngành, các nhà đầu tư trao quyết định chủ trương đầu tư và
phê duyệt đầu tư vào Vùng Đồng bằng sông Hồng
Thứ tám,
Thủ tướng yêu cầu sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, đặc biệt là đất đai, nước. Đẩy mạnh liên kết trong bảo tồn, khai
thác sử dụng tài nguyên, đa dạng sinh học; tăng cường kiểm soát chặt chẽ chuyển
đổi mục đích sử dụng đất. Tăng cường công tác phối hợp trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường, xử lý rác thải, chất thải, nước thải gắn với thích ứng biển đổi khí
hậu và nước biển dâng.
Thứ chín,
về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Thủ tướng đề nghị thực hiện tốt các nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo, không để bị động, bất
ngờ. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tăng cường trấn áp
các loại tội phạm. Chủ động ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.
Phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa chính trị, đa dạng hóa đối tác; khai thác
hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, nâng cao hiệu quả hợp tác phát triển
và giao lưu quốc tế, nhất là đối với các thị trường lớn, tiềm năng.
Thứ mười,
về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu
giữ vững đoàn kết, thống nhất, huy động sức mạnh tổng hợp; xây dựng đội ngũ
lãnh đạo, quản lý các cấp bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý, có chuyển
giao, kế thừa. Không ngừng củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, góp phần bảo
đảm "phên dậu" về quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà trao Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời
kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch chung TP. Hạ Long đến năm 2040
cho lãnh đạo tỉnh và TP. Hạ Long
Tại Hội
nghị, các cơ quan đã công bố và trao Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch chung thành phố Hạ Long đến năm
2040; công bố thỏa thuận hợp tác/thư bày tỏ quan tâm tài trợ giữa Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và các đối tác phát triển; trao giấy chứng nhận đầu tư, biên bản ghi
nhớ của các địa phương và các doanh nghiệp, đối tác trong và ngoài nước.
Để thu hút
các nhà đầu tư, Thủ tướng nhấn mạnh tinh thần "lợi ích hài hòa, rủi ro
chia sẻ" giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân; đề nghị các bộ ngành, địa
phương tiếp tục tập trung đầu tư phát triển hạ tầng chiến lược để giảm chi phí
logistics; tích cực hơn nữa cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện
môi trường kinh doanh; rà soát, sửa đổi, bổ sung thể chế, chính sách; xây dựng
chính sách phù hợp cho các ngành, lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên; luôn sát cánh,
chia sẻ, động viên, lắng nghe nhà đầu tư, giải quyết các khó khăn, vướng mắc.
Thủ tướng
mong muốn các nhà đầu tư, doanh nghiệp, đối tác phát triển đồng hành cùng Chính
phủ, các cấp, các ngành, các địa phương xây dựng môi trường thuận lợi, an toàn,
minh bạch, chia sẻ các khó khăn, giải quyết các vướng mắc với tinh thần
"bình đẳng, cùng phát triển, cùng có lợi, cùng trách nhiệm với xã hội, người
lao động, bảo vệ môi trường".
Các doanh
nghiệp, nhà đầu tư "đã nói là phải làm, đã cam kết phải thực hiện, mang lại
hiệu quả cụ thể, đo lường được, được nhân dân ghi nhận", chuyển hóa tiềm lực
thành động lực phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng.
Theo BCP